1) Sau khi một người từ giã cõi
đời, tâm thức của người đó không trụ ở một nơi nào, tùy theo khuynh
hướng của tâm (nghiệp) mà thần thức đi tái sanh ở cõi tương ứng. Ngay
khi còn sống tâm thức của người đó cũng không trụ ở nơi nào, vì nó hằng
tuôn chảy như thác nước (hằng chuyển như bộc lưu) như Duy Thức Tam Thập
Tụng đã nêu rõ, thì làm sao khi chết thần thức của người đó tồn tại, hay
kết ngưng ở một điểm nào. Khi thần thức nằm trong bụng mẹ thì nó sẽ nằm
một chỗ trong suốt thời gian mang thai.
Theo Luận Tạng (Abhidhamma Pitaka) của
Phật giáo Nam truyền, tâm tử (cuti citta) cũng chính là tâm sanh
(patisandhi citta), nghĩa là khi con người lìa bỏ thân tứ đại này lập
tức đi tái sanh, tìm kiếm một thân mới dưới hình thức khác.
2) Làm sao để biết chắc có sự tái sinh?
Theo kinh Sa-môn Quả thuộc Trường Bộ kinh, nhiều học thuyết thời đức
Phật đã chủ trương rằng sau khi chết là hết, không có đời sau. Kinh này
ghi lại tư tưởng của ngoại đạo Ajita Kesakambali cho rằng sau khi chết
là hết, không hề có tái sanh luân hồi. Học thuyết này cho đến thời cận
đại cũng còn có nhiều tư tưởng gia cổ xúy. Theo đức Phật học thuyết
không có đời sau có khả năng đưa con người đến đọa xứ và ác thú, vì tính
tác hại đạo đức của nó.
Lại nữa, kinh Tệ Túc 23, cũng thuộc
Trường Bộ kinh trình bày cuộc trao đổi giữa một vị vua minh triết Pàyàsi
và Thánh đệ tử đa văn Kumàra Kassapa của đức Thế Tôn là làm thế nào để
biết có luân hồi. 12 thí dụ của tôn giả Pàyàsi Kassapa đã minh chứng
hùng hồn về sự tái sanh của tất cả hữu tình, mà vua Pàyàsi đã cố tình
đưa đẩy không chấp nhận. Cuối cùng nhà vua đã thâm tín lời giảng dạy của
tôn giả Kumàra Kassapa và quy y Tam bảo.
Cũng
nên xem thêm kinh Na-tiên Tỳ kheo để thấy ngài Na-tiên (Nagasena)
chứng minh cho vua Mi-lin-đà (Milinda) biết rằng tái sanh là chuyện có
thật và nhà vua đã hoàn toàn bị thuyết phục trước những lập luận khoa
học của ngài Nagasena.
3) Về khái niệm “ma”. Các dịch giả Trung
Quốc và Việt Nam đều chuyển ngữ chữ Peta trong Pàli hoặc Preta trong
Sanskrit thành “ngạ quỷ” (quỷ đói) như tiếng Hán Việt, chứ không dịch
chữ này thành “ma”, “quỷ” như người Việt Nam thường gọi.
Khái niệm “ma” và “quỷ”, Việt Nam và
Trung Quốc phân biệt khá rõ ràng. Những hạng chúng sanh sau khi chết mà
không đi đầu thai ở cõi người hoặc các cõi khác mà phải đọa vào hạng
chúng sanh vất vưởng đói khát, nhưng không phá phách nhiều thì gọi là
ma, còn cùng một loại trên mà có năng lực mạnh hơn và chuyên tâm hại
người thì gọi là quỷ. Còn những hạng có công với quốc gia, với xã tắc,
bỏ mình vì chiến trận, và hộ quốc an dân, hoặc trong đời sống có làm
phước thiện, nếu không được đi đầu thai làm người hoặc trời, thì được
phong làm “thần”. Trong Phật giáo, theo cách phân chia tổng quát, thì cả
3 hạng trên đều thuộc về Peta cả. Trong Ngạ Quỷ Sự (Petavathu) hoặc còn
được dịch là Chuyện Ngạ Quỷ, có mô tả nỗi khổ của loài quỷ đói, đồng
thời đề cập đến các nguyên nhân bị đọa vào loài Peta của cả 3 hạng này.
Cách phân loại chúng sanh ở cảnh giới
nào cũng mang tính khái quát thôi. Hạng thần ở cõi trần, vì tạo được một
vài thiện sự nên cũng ở cõi trần mà hưởng phước dưới dạng một chúng
sanh không phải cõi người và vì nghiệp thức chiêu cảm nên cấu trúc xác
thân và có những đặc điểm y như loài quỷ vậy, ví dụ biết được tâm niệm
của người, mà họ khác loài quỷ ở chỗ phước đức mà thôi, do đó cũng xếp
vào hạng Peta.
Do đó, nếu ta dịch chữ Peta hoặc Preta
thành ngạ quỷ (quỷ đói), e rằng không lột tả được hết nghĩa của của nó.
Và, có người sẽ đặt vấn đề vậy thần sẽ được xếp vào hạng nào? Theo
Pali-English Dictionary của T.W. Rhys Davids và William Stede, Peta các
nghĩa sau: 1. Thần hồn của những người đã mất (souls of the departed);
2. Loài ma quỷ đau khổ (unhappy ghosts) và 3. Loài ma quỷ hạnh phúc
(happy ghost). Trong đó, còn liệt kê nhiều kinh liên hệ đến cả 3 loại
này. Do đó, nếu ta theo sát từ điển nói trên thì peta chỉ có nghĩa là
thần hồn của người đã mất, quá cố (dead, departed, the departed spirit)
để chỉ chung cho các hạng sau khi chết không bị đọa vào địa ngục
(niraya) hoặc không được tái sanh vào cõi A-tu-la (Asura), người
(manussa) hoặc chư thiên (deva).
Từ Điển Phật Học Hán Việt trình bày các
hạng ma quái, quỷ mị, địa thần cũng xếp vào Peta hoặc Preta. Luận Thuận
Chính Lý, quyển 31, có 3 loại quỷ: 1. Vô tài quỷ; 2. Thiểu tài quỷ; 3.
Đa tài quỷ. Mỗi loại quỷ lại chia 3 hạng nữa thành cả thảy 9 loại. Trong
kinh Chánh Pháp Niệm, quyển 16, nêu ra 36 loại quỷ.
Kinh Địa Tạng cũng liệt kê nhiều loại
quỷ khác nhau, như Ác Mục quỷ vuơng (chúa quỷ mắt dữ), Đạm Huyết quỷ
vuơng (chúa quỷ ăn huyết), Đạm Tinh Huyết quỷ vương (chúa quỷ ăn tinh
chất), Đạm Thai Noãn quỷ vương (chúa quỷ ăn thai trứng), Hành Bịnh quỷ
vương (chúa quỷ gây bịnh tật), Nhiếp Độc quỷ vương (chúa quỷ trừ độc).
(Phẩm một: Thần Thông Trên Cung Trời Đao Lợi).
Như vậy, trường hợp gặp “ma”, người viết
cũng không thể xác định rằng đó là thuộc hạng Peta 1, 2 hoặc 3 như
Pali-English Dictionary trình bày. Giác Hy tự mình có thể đoán họ là
hạng nào, vì bạn là người gặp và trong trường hợp nào. Dĩ nhiên chúng
cũng không ngoài hạng ma, quỷ, thần như chúng ta vừa đề cập ở trên.
Viết đến đây, chúng tôi nhớ đến câu
chuyện của Khổng Tử, khi Quý Lộ (Tử Lộ) hỏi Khổng Tử về đạo thờ quỷ
thần, Khổng Tử đáp “chưa biết đạo thờ người, sao biết được đạo thờ quỷ
thần” (Vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ). Khi đó, Tử Lộ hỏi tiếp về
trạng thái sau khi chết, Khổng Tử cũng đáp “sự sống còn chưa biết, làm
sao biết được sự chết?” (vị tri sinh, yên tri tử ), (Luận Ngữ : Tiên Tần
đệ thập nhất: 11).
Thế giới quỷ thần là có thật, đôi khi
xung quanh chung ta. Tồn tại dưới dạng quỷ thần là một bất hạnh, mà
người bị vướng vào trường hợp này nên rũ bỏ sự chấp trước để sớm được
siêu thoát. Hãy cầu siêu các loại ma quỷ để họ sớm được tái sinh.
(Nguyệt san Đạo Phật Ngày Nay số 3)