Đội quân này
được mô tả là đã được trang bị những loại vũ khí gây chết người, riêng
Ma vương được cho là có nhiều loại thần thông tuyệt luân dùng để lật đổ
đức Phật. Kinh nghiệm của đức Phật trong việc đối phó với Ma vương đã
làm sáng tỏ những khía cạnh nào đó có liên quan tới bạo lực và khủng bố.
Ông ta nói với đức Phật rằng nếu Ngài từ bỏ theo đuổi con đường hiện
tại, thì Ngài sẽ có một cuộc sống sung túc. Sau đó, ông ta nói rằng
người thân của Ngài đang gặp nguy hiểm. Điều này cũng giống cách mà bọn
khủng bố thời hiện đại đang sử dụng là bắt cóc con tin. Ma vương dùng
thần thông của mình bắt người thân của đức Phật đến trước Ngài đe dọa.
Họ van nài xin tha. Sự thật, họ chỉ là ma quỷ hiện hình do Ma vương tạo
ra. Ngày nay, phương pháp bắt cóc con tin này khá phổ biến để bọn khủng
bố đưa ra những yêu sách mà họ muốn.
Những đe dọa của Ma vương sớm trở thành một cuộc
khủng bố thật sự: “Hãy xông lên, túm lấy, bắt trói và quăng ném tên tiện
sanh này. Hắn là đồ sâu bọ chứ không phải là con người”. Ma vương tiếp
tục chửi rủa, uy hiếp tinh thần đức Phật bằng cách “Tạo ra chín trận mưa
đao, gây khói đen mịt mù, giông tố sấm chớp vang trời”. Sau khi các
kiểu uy hiếp về tinh thần này thất bại, không lung lay được ý chí của
đức Phật, Ma vương bèn sử dụng đến nữ sắc bằng cách cho ba người con gái
xinh đẹp của mình đến nhằm lung lạc ý chí của đức Phật để đạt được mục
đích.
Trong đoạn tình tiết trên, phương pháp đối phó với
bạo lực được đức Phật sử dụng đáng để chú ý: Ngài không run sợ, nhúc
nhíc; không bị khiêu khích và bỏ ngoài tai tất cả các tư tưởng về bạo
lực. Bạo lực chỉ có thể khơi nguồn, phát triển và lan rộng nếu nó nằm
trong một môi trường thích hợp. Nếu các điều kiện thích hợp không tồn
tại thì bạo lực có thể phát triển không? Bản chất của bạo lực khiến nó
dễ dàng phát khởi và lan rộng, vì thế, kinh nghiệm của những người đã
từng nếm trải bạo lực rất đáng học hỏi.
Quan điểm của Phật giáo đối với những hành vi bạo lực
cả về thể xác lẫn tinh thần được minh chứng trong những câu pháp cú
dưới đây:
“Mọi người sợ hình phạt,
Mọi người sợ tử vong,
Lấy mình làm ví dụ,
Không giết không bảo giết”.
“Chúng sanh cầu an lạc,
Ai dùng trượng hại người,
Để tìm lạc cho mình,
Đời sau không được lạc”(1).
Thậm chí, trong lời nói, chúng ta cũng phải cẩn trọng
để không làm tổn thương người khác. Phải tránh bạo lực trong cả lời
nói, hành động và tư tưởng. Vì rằng, bạo lực không những gây ra tổn
thương cho nạn nhân mà còn chẳng đem lại bất kỳ hạnh phúc nào cho người
tạo ra nó. Hậu quả nhãn tiền là chính đau khổ được gây ra sẽ đánh thức
bạo lực, mở cửa cho bạo lực phát triển không những trong đời này mà còn
kiếp sau.
“Hoặc khổ thọ khốc liệt,
Thân thể bị thương vong,
Hoặc thọ bệnh kịch liệt,
Hay loạn ý tán tâm”.
“Hoặc phòng ốc nhà cửa,
Bị hỏa tai thiêu đốt,
Khi thân hoại mạng chung,
Ác tuệ sanh địa ngục”(2).
Trong cuộc đời đức Phật, chúng ta học được nhiều
phương pháp mà Ngài sử dụng để đối phó với hành động bạo lực, một trong
số đó là trường hợp Ngài hóa độ ba anh em nhà Kassapa theo đạo thờ lửa.
Người anh đầu tên là Uruvela Kāsyapa cho phép đức Phật qua đêm tại một
hang núi trong đó có con rắn hổ mang hung bạo đang ẩn náu. Khi Ngài vào
bên trong, con rắn hổ mang trở nên hung dữ, phun lửa hòng thiêu đốt
Ngài. Đây là một trận đấu có tính biểu tượng: Một bên là con rắn hổ mang
dữ tợn, đầy sân hận, si mê và một bên là đức Phật từ bi, trí tuệ. Hay
như trường hợp Ngài ngăn chặn cuộc chiến giành nguồn nước của con sông
Rohini giữa hai dòng họ Sākyans và Koliyas(3).
Khi bạo lực hay khủng bố được dùng để chống lại một
cá nhân yếu đuối hơn thì tác dụng của hành động bạo lực này rồi cũng sẽ
trở lại với chính người gây ra nó. Trong chuyện Tiền thân Latukitā(4) có
kể lại câu chuyện về một con voi to lớn tấn công con chim cút nhỏ bé.
Con voi hung ác đó không những không nghe lời van xin che chở những đứa
con bé nhỏ của chim cút mẹ mà còn giẫm đạp lên bầy chim con đang nằm
trong tổ ở dưới đất. Chim cút mẹ tức giận đã nhờ con quạ trả thù. Con
quạ tấn công vào cặp mắt của con voi độc ác gây ra vết thương.
Chim cút mẹ lại nhờ con ruồi xanh đẻ trứng vào vết
thương ở mắt con voi để sanh dòi, gây đau đớn. Con voi bị đui mắt đi tìm
nước. Chim cút mẹ lại nhờ con ếch để đánh lạc hướng tìm nước của con
voi. Ếch lên núi kêu lên, voi nghĩ ở đó có nước nên lần theo. Lên đến
đỉnh núi thì ếch lại đi xuống phía dưới chân núi kêu lên nữa, voi lại đi
xuống. Lần mò xuống núi thì bị lăn cù, té xuống vực sâu mà chết.
Quan điểm đối với hành vi bất thiện của đức Phật được
mô tả sinh động trong cuộc đối thoại với tỷ kheo Puṇṇa, người mong muốn
tới một khu vực mà dân chúng nơi đó rất hung dữ, thích đánh nhau. Tỷ
kheo Puṇṇa đã xin phép đức Phật để đi tới khu vực này thuyết pháp(5).
Cuộc đối thoại này nói lên phương pháp đối phó bạo
lực bằng cách trau dồi hạnh nhẫn nhục và sự cảm thông để tìm ra những
phương sách tối ưu nhất. Thường thì, bạo lực hình thành trong tư tưởng
và biểu lộ bằng lời nói cộc cằn, dữ tợn. Nhóm người ở vùng này có khuynh
hướng cư xử bằng bạo lực, vì thế, không nên kích động họ bằng những lời
nói thô lỗ, cộc cằn. Họ là những người hiền, chỉ sử dụng ngôn từ khó
nghe nhưng không nên làm điều gì để họ lấy cớ tấn công chúng ta. Chúng
ta nên suy nghĩ về điều đó và nếu muốn ngăn chặn bạo lực thì nên tự kiểm
soát ngay chính hành động và suy nghĩ của mình. Chìa khóa để kiểm soát
hành vi và tư tưởng nội tại chính là đức tính kiên nhẫn.
Việc kiểm soát này nên được thực tập từ từ. Tất cả
các tình huống phát triển của bạo lực cũng đã được nêu ra trong cuộc đối
thoại này. Bất cứ ai (chính quyền nhà nước, nhà lãnh đạo, cảnh sát…)
với mong muốn dập tắt bạo lực nên chú ý đến phương pháp này. Nhận định
mỗi giai đoạn phát triển của bạo lực để tìm phương sách giải quyết thích
hợp nhất. Trong cuộc đối thoại này, Tôn giả Puṇṇa quyết định hy sinh
mạng sống của mình để ngăn chặn bạo lực nếu cần thiết. Đây là một quyết
định có thể hiểu được vì Tôn giả đã chứng đắc Thánh quả. Ngày nay, chúng
ta cũng thấy nhiều trường hợp đàn ông, đàn bà hi sinh mạng sống của
mình để bảo vệ những nạn nhân vô tội trước những hành động bạo lực, hoặc
chính họ mạo hiểm để tham gia các cuộc đàm phán hay thương thuyết với
bọn khủng bố.
Trong chuyện Tiền thân Khantivādi(6) có đề cập tới
chuyện về một vị ẩn sĩ tu hành bị nhà vua tra tấn. Mặc dù bị tra tấn dã
man nhưng vị ẩn sĩ không đánh mất đức tính kham nhẫn của mình mà còn rải
lòng từ đến nhà vua.
Hay như câu chuyện về quỷ Dạ Xoa Ālavaka đe dọa đức
Phật. Ālavaka yêu cầu đức Phật làm theo những gì hắn ra lệnh như đứng
lên, ngồi xuống, đi tới, đi lui. Và Ngài đã làm theo như thế. Nhưng khi
mệnh lệnh ấy vượt quá giới hạn, Ngài liền lập tức từ chối, nhưng không
vì thế mà mất đi tính kiên nhẫn của mình. Điều này nói lên rằng, đến một
mức độ nào đó, thì ta không nên nhân nhượng mãi, phải thể hiện chánh
kiến để chấm dứt thái độ khiêu khích nhưng không mất đi đức tính kiên
nhẫn.
Xưa kia, có một con rắn đã thực tập lời thệ nguyện
không gây hại bất kỳ ai bằng lời nói, hành động và tư tưởng dưới bất kỳ
hình thức nào. Vì thế, những người phụ nữ vào rừng kiếm củi đã dùng thân
rắn (họ không biết đó là con rắn) để bó củi. Toàn thân đau nhức, vết
cắt đầy mình nhưng rắn vẫn không một chút oán giận. Một vị thiện tri
thức khi biết nỗi đau thân thể vì lời phát nguyện của rắn như thế mới
khuyên nó nên phát ra tiếng kêu để mọi người biết mà tránh xa.
Đến một giai đoạn nào đó, bạo lực cần phải được dùng
phương pháp lấy độc trị độc nhưng nhất quyết hạn chế thấp nhất gây hại
đến người khác. Một khi đã áp dụng phương pháp này thì không nên làm tổn
thương đến đức tính kham nhẫn của kẻ khác, những người luôn lấy đức từ
để đối phó bạo lực. Sự kiên quyết trong việc áp dụng phương pháp này
phải luôn kết hợp với đức tính kiên nhẫn.
Bạo lực rất dễ phát khởi, có rất nhiều điều kiện
thuận lợi để bạo lực nảy mầm và phát triển. Vì thế, những nguyên nhân
khiến bạo lực tăng trưởng phải xem xét một cách thấu đáo. Hãy lập tức
cách ly mầm móng phát sinh bạo lực ra khỏi môi trường thích hợp như cách
mà ta cách ly những người ưa thích gây gổ hay cằn nhằn tránh xa nhau.
Bạo lực luôn phát sinh. Hẳn phải có cơ sở thích nghi
để nó sinh khởi. Vì thế, những nguyên nhân khiến cho bạo lực sinh khởi
phải được tìm hiểu một cách kỹ càng trước khi muốn giải quyết. Sự can
thiệp trực tiếp của những người thường xuyên nóng giận là thúc đẩy bạo
lực vào môi trường thích hợp để nó phát triển.
Thời đó, có hai vợ chồng Bà-la-môn yêu cầu đức Phật
cưới con gái của họ làm vợ. Ngài từ chối và giải thích với họ rằng Ngài
không đam mê sắc dục. Ngài dạy rằng sắc đẹp của phụ nữ là phù du, ngắn
ngủi. Cô gái ấy (tên là Māgandhi) nghe đức Phật nói thế lấy làm tức
giận. “Tôi có thể hiểu vì sao ông ta từ chối, nhưng tại sao ông ấy lại
nói sắc đẹp của tôi như thế?” Và như thế, cô ta bắt đầu nuôi dưỡng lòng
hận thù đối với đức Phật.
Māgandhi bắt đầu sử dụng hành vi bạo lực để rửa mối
nhục này. Cô ta khinh miệt và chửi bới đức Phật và Tăng chúng nơi công
cộng. Nhưng Ngài vẫn không lên tiếng. Hành động bạo lực đó không có một
nhân tố nào tham gia, không có một động lực nào thúc đẩy vì thế đã không
tồn tại dài lâu. Vì không có một phản ứng nào từ đức Phật nên những
hành động bạo lực của Māgandhi dần giảm xuống và lắng dịu đi.
Nhưng cô ta vẫn không từ bỏ ý chí phục thù. Lúc sau
đó, cô ta trở thành thê thiếp của nhà vua tên là Udeni. Vua Udeni có một
người vợ tên là Sāmāwati đã trở thành đệ tử tại gia của đức Phật. Bây
giờ, Māgandhi bắt đầu trút cơn tức giận của mình sang Sāmāwati. Bà sai
tay chân của mình đến đốt cung điện của Sāmāwati. Thế là hoàng hậu
Sāmāwati và năm trăm cung nữ bị chết trong ngôi nhà lửa này.
Lòng hận thù là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành
động tàn khốc này. Māgandhi đã phải trả giá cho hành động tàn ác của
mình khi sự thật được phơi bày. Nhà vua đã nổi giận bắt bà và thân quyến
của bà chịu cực hình cho đến chết. Trong một thời gian dài, tội ác đã
tiêu diệt những kẻ chứa chấp nó. Giáo lý Phật giáo truyền tải những đạo
lý như thế vẫn còn hữu ích cho đời sống chúng ta ngày nay(7).
Một cá nhân, một thể chế, một đất nước sử dụng bạo
lực để giải quyết một vấn đề thường tạo ra cơ sở và một môi trường để
tội ác lan rộng trong dân chúng. Trong kinh điển có nói đến trường hợp
một nhà nước sử dụng hành động bạo lực để trừng trị cái gọi là tội phạm.
Dân chúng chú ý cách mà nhà vua chặt tay, chân tội phạm sau đó cũng làm
theo như vậy dẫn tới xã hội rối ren đầy bạo động.
Điều kiện gì khiến con người có lối cư xử bạo lực?
Giáo lý Phật giáo nói rằng những nhân tố thuộc về tâm lý và xã hội góp
phần tạo nên những khuynh hướng sử dụng bạo lực trong con người.
Angulimāla là một sinh viên trẻ có kỷ luật và thông minh. Những bạn đồng
học đã ghen tị với Angulimāla và đã bịa ra một tin đồn rằng Angulimāla
đã quan hệ bất chính với vợ của thầy giáo. Ông thầy giáo đó đã quá tức
giận khi nghe được điều này nên nghĩ ra một âm mưu để tống khứ
Angulimāla đi. Ông bảo Angulimāla đi thu thập một ngàn ngón tay người để
hoàn mãn khóa học của mình. Để làm tròn bổn phận được giao, Angulimāla
bắt đầu giết người để lấy ngón tay. Đầu tiên, Angulimāla giết được một
người, chặt lấy mười ngón tay. Khi giết đến người thứ hai, người thứ ba
thì tính cách của Angulimāla bắt đầu thay đổi. Mỗi hành động bạo lực ấy
đã làm cho tính nết và nhân cách của anh ta thay đổi. Cái nhìn trong
trắng ngây thơ của một chàng trai trẻ dường như đã biến mất mà giờ đây
là con ác quỷ lủng lẳng trên cổ một chuỗi các ngón tay rướm máu người.
Anh ta ắt hẳn không do dự khi giết chết người mẹ ruột của mình để hoàn
thành bài tập mà thầy giáo giao cho. Đó là một sự thay đổi tâm lý ghê
gớm, không thể tưởng tượng nỗi mà hành vi bạo lực và tội ác đem đến cho
con người. Vì thế, hành vi tội lỗi ấy ảnh hưởng đến độ sau khi đã trở
thành đệ tử xuất gia của đức Phật vẫn còn bị nhà vua và dân chúng kinh
sợ lánh xa.
Thật thú vị để biết cách mà đức Phật đã mang tướng
cướp Angulimāla trở lại bản chất lương thiện của mình. Angulimāla là một
chàng thanh niên thông minh, nên đức Phật đã dùng phương pháp trí tuệ
để hóa độ anh ta. “Đứng lại”, Angulimāla thét lên khi thấy đức Phật.
Ngài vẫn đi bình thường và nói: “Ta đã dừng lại; vì ngươi, Ta đã dừng
lại”. Angulimāla tỏ ra bối rối: “Này Sa-môn, đừng nói dối. Ông vẫn đang
đi. Trong khi đang đi ông nói ông đã dừng lại. Ông hãy giải thích cho
tôi nghe được không?” Thay vì trong đầu luôn nghĩ tới tội ác, sự tò mò
về trí tuệ đã kéo Angulimāla trở về thực tại. Phương pháp sử dụng trí
tuệ của đức Phật đã đem lại kết quả như mong đợi.
Những hành động hận thù dẫn tới sát nhân cũng được đề
cập trong lịch sử cuộc đời đức Phật. Thời đó, những phần tử đối lập của
Phật giáo giết chết một phụ nữ trẻ xinh đẹp và giấu xác của cô ta trong
tu viện nơi đức Phật cư trú. Trước khi sự việc xảy ra, bọn chúng để cô
gái đó tới tu viện với chiêu bài tham gia vào nghi lễ tôn giáo, đặc biệt
buổi tối hôm đó tín đồ tụ tập về tu viện để nghe đức Phật thuyết pháp.
Khi cô gái mất tích, sự việc được báo cáo lên đức
vua. Một cuộc tìm kiếm kỹ lưỡng đã được tiến hành. Cuối cùng, xác của cô
gái được tìm thấy trong khu vườn của tu viện. Họ tìm thấy xác cô gái
cùng đứa bé trong bụng, đã kết tội đức Phật và Tăng chúng đã quan hệ với
cô gái này, sau đó biết cô có mang đã giết chết cô gái và giấu xác cô
ta trong khu vườn.
Vì chuyện này, người dân bắt đầu đàm tiếu và lánh xa
đức Phật và Tăng chúng. Trong một tuần, Ngài đã ở trong tu viện kiên
nhẫn chờ đợi sự phán quyết của chính quyền, không thanh minh hay biện
minh bất cứ điều gì. Tôn giả Ānanda tỏ ra chán nản đã thưa với đức Phật
rằng: “Thưa Thế Tôn, hãy cho chúng con đi nơi khác”.
“Nếu ở đó người dân cũng đàm tiếu hay mắng nhiếc thì sao?” Ngài hỏi lại.
“Thì chúng con lại tìm nơi khác”, Tôn giả Ānanda trả lời. Đức Phật dạy rằng nếu chúng ta lẩn trốn khắp nơi để khỏi
bị vu cáo, tránh chửi mắng, thậm chí có đi từ làng
này đến làng khác trên đất nước này thì vấn đề cũng chẳng giải quyết
được. “Này tỷ kheo, việc ồn ào này sẽ không kéo dài lâu. Nó chỉ tồn tại
trong một tuần thôi, sau đó sẽ chấm dứt. Nếu người dân chửi mắng, kết
tội ông với lời lẽ thô tục, thì ông nên nói với họ rằng, những ai viện
cớ chửi rủa mắng nhiếc người khác, những ai phủ nhận những hành động tội
lỗi, xấu ác mà mình đã gây ra thì sẽ chịu quả báo đau khổ trong địa
ngục kiếp sau”.
Đức Phật đã đưa ra bài học đầu tiên trong việc đối
phó với hành động tuyên truyền của những kẻ khủng bố. Chính hành động
tuyên truyền này cho phép kẻ xấu kích động dân chúng chửi bới và miệt
thị Tăng chúng. Vào thời đó, sự lan truyền tin tức còn hạn chế, chủ yếu
là truyền miệng. Ngày nay, sự có mặt của các phương tiện truyền thông
hiện đại đặc biệt là báo chí, truyền hình, sóng phát thanh làm cho mọi
việc trở nên rối tung khó phân biệt phải trái. Gây ra một tội ác để thu
hút sự chú ý của giới truyền thông luôn là ý tưởng mà bọn khủng bố
thường dùng đến. Bạo lực xảy ra càng nhiều, thì những thước phim về
những cảnh chết chóc đó càng được công chúng quan tâm theo dõi. Chúng ta
quan sát diễn biến của loại tội ác này trong việc thu hút sự chú ý của
công chúng như câu chuyện trên: Một cô gái trẻ xinh đẹp được chọn, sex
được khai thác, giết người đã xảy ra và xác chết được tìm thấy trong
khuôn viên tu viện. Những tin tức giật gân này đã ‘cất cánh lan xa’ bằng
phương tiện truyền thông đơn giản nhất: Truyền miệng. Loại tội phạm này
đã được bọn xấu sử dụng ngay trong thời đức Phật.
Trong trường hợp này, đức Phật đưa ra một phương pháp
để đối phó với rắc rối này. “Khi không tìm được chứng cứ buộc tội, mình
được chứng minh trong sạch thì ta bắt đầu lên tiếng, ném trả lời buộc
tội cho những kẻ vu cáo. Mục đích là không cho phát sinh thêm những
thông tin dựa trên lời tuyên truyền sai lầm, cường điệu”.
Đó chính là thái độ vạch trần luận điệu giả dối của
kẻ vu cáo trong việc đối phó với loại tội phạm này. Giữ im lặng trong
một thời gian vừa phải và sau đó, nếu không tìm ra chứng cứ buộc tội, sự
thật được phơi bày thì ném trả những vu cáo đó cho người tố cáo. Trốn
chạy để tránh bị buộc tội là một việc làm vô ích. Công khai sự thật cho
công chúng biết chính là phương pháp tốt nhất để đối phó với bạo lực và
khủng bố. Cùng một phương tiện truyền thông mà bọn khủng bố lợi dụng, có
thể sử dụng để nói lên sự thật. Chúng ta thật sự phải hiểu cách mà bọn
tội phạm thu hút giới truyền thông để từ đó tạo ra những phương pháp tốt
hơn trong việc thu hút giới truyền thông đến với sự thật hơn là bị thu
hút bởi sự giả dối của bọn chúng.
Không có trường hợp nào mà hành động tội ác được mô
tả chi tiết như của hai nhân vật hoàng gia Ajāsatta và Devadatta. Người
thứ hai là em vợ của Thái tử Siddhārta, còn người đầu tiên là con trai
yêu quý của đức vua Bimbisāra, một người đệ tử tại gia mộ đạo của đức
Phật.
Ajāsatta là một chàng trai trẻ, và chính Devadatta là
động cơ thúc đẩy anh ta tham gia vào hành động tội ác. Đầu tiên,
Devadatta thuyết phục thái tử Ajāsatta bằng tính cách lôi cuốn đầy sức
thuyết phục của mình. Trong khi Thái tử chỉ là một thanh niên, suy nghĩ
còn non dạ, Devadatta có một số phép lạ đã biểu diễn cho thái tử xem.
Thái tử tỏ ra kinh ngạc đối với một người đàn ông trung niên có nhiều
năng lực như Devadatta.
Mối quan hệ giữa Devadatta và Ajāsatta là một ví dụ
điển hình cho thấy cách mà những người trẻ tuổi non dạ dễ rơi vào cạm
bẫy được tính toán kỹ lưỡng của những kẻ tội phạm và tự nguyện dấn thân
vào tội ác. Hầu hết các trường hợp con mồi thường bị chinh phục bởi tính
cách lôi cuốn hấp dẫn. Vì thế, bọn tội phạm hiểu rõ tâm tư tình cảm của
giới trẻ và sử dụng sức lôi cuốn từng trải của mình để nhồi nặn giới
trẻ theo cách mà họ muốn. Vì thế, trước khi Devadatta lập ra một âm mưu,
ông ta đã biết rõ vị thái tử này, một chàng thanh niên non dạ, chính là
người phù hợp với kế hoạch của ông ta.
Để tạo ra tiếng vang lớn, thu hút sự quan tâm của
công chúng, thì cần phải có động cơ thúc đẩy nhiều người khác cùng tham
gia vào những hành động tội ác. Vì thế, muốn âm mưu chống phá đức Phật
của mình có sự ủng hộ rộng rãi, Devadatta đã yêu cầu đức Phật chấp nhận
năm sự việc mà ông đưa ra. Năm yêu cầu này bắt buộc một vị tỷ kheo phải
thực hành trong suốt cuộc sống của mình:
1. Tỷ kheo suốt đời phải sống trong rừng rậm, nếu cư ngụ trong làng xóm thì phạm tội.
2. Tỷ kheo suốt đời đi khất thực, nếu hoan hỉ sự thỉnh mời thì phạm tội.
3. Tỷ kheo suốt đời mặc y (may bằng vải) lấy từ nghĩa địa, bị quăng bỏ, nếu hoan hỉ nhận y từ gia chủ thì phạm tội.
4. Tỷ kheo suốt đời sống dưới gốc cây, nếu đi đến dưới tán mái che thì phạm tội.
5. Tỷ kheo suốt đời không ăn thịt cá, nếu ăn thịt cá thì bị phạm tội.
Tuy nhiên, đức Phật không chấp nhận các quy tắc này
như là những điều luật bắt buộc đối với Tăng chúng. Ngài dạy rằng, tỷ
kheo nào muốn thực hành thì có thể áp dụng, còn những tỷ kheo nào không
thích làm những điều ấy thì tùy nghi, không ép buộc. Vị nào muốn thì hãy
trở thành vị sống ở rừng; vị nào muốn thì cứ cư ngụ ở trong làng. Vị
nào muốn thì hãy trở thành vị khất thực; vị nào muốn thì cứ hoan hỷ việc
thỉnh mời; vị nào muốn thì hãy là vị mặc y (may bằng vải) bị quăng bỏ;
vị nào muốn thì cứ hoan hỷ y của gia chủ. Này Devadatta, ta cho phép chỗ
trú ngụ là gốc cây trong tám tháng. Cá thịt được dùng với ba điều kiện
là: “Không thấy, không nghe, và không nghi ngờ”. Vì có liên quan đến
niềm tin của dân chúng về nếp sống khổ hạnh của một vị xuất gia nên khi
Devadatta công bố năm sự việc này thì được dân chúng ủng hộ. Vì thế, khi
đức đức Phật từ chối lời thỉnh cầu ban hành năm sự việc này thì
Devadatta liền lợi dụng việc từ chối đó để kích động quần chúng chống
lại đức Phật.
Sự thật là Devadatta đã ghen tỵ với đức Phật. Ông ta
muốn hạ bệ đức Phật để lãnh đạo Tăng đoàn. Đó là lý do mà ông ta đã xúi
thái tử Ajāsatta: “Tôi sẽ giết chết sa-môn Gotama để thống lĩnh Tăng
chúng, còn Ngài giết vua cha để chiếm ngôi”.
Trong trường hợp này, tham vọng và lòng hận thù cá
nhân đã được truyền sang công chúng, và đó cũng là đặc điểm mà các tổ
chức khủng bố ngày nay thường áp dụng. Thái tử Ajāsatta đã bị thuyết
phục bởi một âm mưu đen tối: “Bây giờ tuổi thọ của con người ngắn ngủi,
nếu Ngài đợi đến khi vua cha băng hà rồi lên ngôi thì khi đó Ngài đã trở
thành ông già rồi. Vì thế, những gì mà ngài thích hưởng thụ thì nên
hưởng thụ khi mình còn đang trẻ”.
Bị Devadatta xúi giục, vị thái tử trẻ Ajāsatta đã
quyết định giết vua cha. Ông giấu con dao trong người và rón rén vào thư
phòng của đức vua. Các quan lại thấy nghi liền khám xét thái tử. Họ
phát hiện trong người thái tử có con dao liền trình báo cho đức vua. Vua
cha hỏi Ajāsatta tại sao giấu con dao trong người thì thái tử trả lời:
“Tôi muốn giết ông”. Đức vua lại hỏi lý do tại sao thì thái tử nói rằng
mình muốn lên ngôi. Sau đó, đức vua đã truyền ngôi cho Thái tử. Vì tình
cảm cha con mãnh liệt nên đức vua đã mất bình tĩnh khi trao lại vương
niệm cho đứa con bất hiếu này.
Tuy nhiên, Devadatta không thỏa mãn. Vì có quá nhiều
hận thù và tham vọng nên Devadatta tiếp tục tạo ra lý do khác để kích
động Ajāsatta. Vị tân vương trẻ tuổi non dạ đã không dễ gì hiểu được âm
mưu thâm độc của Devadatta. “Này đức vua, bây giờ Ngài đã lên ngôi,
nhưng cha của Ngài còn sống, bất cứ khi nào ông ấy muốn, đều có thể đày
ải hoặc giết Ngài để nắm quyền trở lại. Ngài nên giết chết cha Ngài đi
để trừ hậu họa”.
Kết quả là vua cha đã bị tống vào ngục. Devadatta đã
chi phối vị tân vương để thực thi nhiều hình thức tra tấn tàn nhẫn đối
với vua cha trong ngục tù. Những hình thức tra tấn này bao gồm không
cung cấp thức ăn và nước uống, bắt vua cha đi trên than hồng, lột da bàn
chân rồi sát muối vào vết thương. Những hình thức tra tấn này cũng được
bọn khủng bố áp dụng ngày nay.
Devadatta thả voi dữ để quật nát đức Phật. Ông ta
lệnh cho người quản tượng cho voi dữ uống rượu rồi thả chúng chạy trên
con đường mà đức Phật đang khất thực. Thả voi say là một kế sách tuyên
truyền của Devadatta. Cả thành phố xôn xao trước tin tức hấp dẫn này.
Voi say, được thả chuồng có thể gây hại cho nhiều người trong thành phố.
Tuy nhiên, điều đó không phải là mối bận tâm của Devadatta, những gì
ông ta muốn là để mọi người biết về số lượng người chết càng nhiều càng
tốt.
Devadatta thuê một xạ thủ giết đức Phật. Ông ra lệnh
cho người bắn cung này phục kích Ngài và sau đó đi theo con đường vạch
sẵn để trở về nhà. Đây là một âm mưu thâm độc. Devadatta cùng lúc ấy
cũng thuê hai xạ thủ khác đợi sẵn trên đường mà người xạ thủ đầu tiên
trở về để giết anh ta. Sau đó lại thuê tiếp bốn xạ thủ khác để giết hai
người này. Như vậy có sáu xạ thủ trong một âm mưu giết đức Phật. Vạch
sẵn một kế hoạch giết người cực kỳ chu đáo để rồi phi tang bàn tay nhốm
máu của mình chính là bản chất của chủ nghĩa khủng bố ngày xưa cũng như
ngày nay. Băng nhóm tội phạm luôn sử dụng những thiết bị hỗ trợ hay hành
động khéo léo để nặc danh.
Đức Phật đã biết âm mưu đen tối của Devadatta nên
Ngài thuyết phục người xạ thủ thứ nhất biết hành động vô ích của mình và
khuyên anh ta không nên trở về con đường mà Devadatta đã đưa ra. Hai xạ
thủ tham gia vào việc mưu sát người thứ nhất đến tìm người thứ nhất.
Đức Phật giảng cho họ nghe và cũng như người thứ nhất, và khuyên họ
không đi về con đường đã vạch ra. Bằng cách này, âm mưu giết đức Phật
của Devadatta và xóa sạch bằng chứng đã thất bại.
Cuối cùng, Devadatta ra tay giết đức Phật. Đây cũng
là cách mà lãnh đạo nhóm khủng bố thường tự mình thực hiện khi các kế
hoạch mượn dao giết người đã thất bại. Lãnh đạo nhóm khủng bố rất hiếm
khi tự mình mạo hiểm hành động. Trong trường hợp này, Devadatta đã không
còn sự lựa chọn nào khác vì các kế hoạch của mình đã không trở thành
hiện thực. Sự hận thù trong tâm phát triển tới mức khiến ông ta trở
thành kẻ ra tay mưu sát đức Phật.
Đối phó với những hành động xấu xa của Devadatta, đức
Phật đã sử dụng một phương pháp rất hay chính là việc thông báo cho dân
chúng biết sự thật, cũng như việc thu phục công luận đứng về phía mình.
Ngài bảo các vị tỷ kheo đi ra ngoài gặp dân chúng và giải thích cho họ
hiểu sự thật. Vì nếu, dân chúng biết được điều gì đang xảy ra, họ sẽ
không bao giờ quay lưng với sự thật. Và một sự việc sáng như ban ngày
như thế thì sẽ rất khó cho một cá nhân hay nhóm nào đó kích động hay xúi
giục người khác có những hành động bạo lực hay nổi loạn, cũng như khó
duy trì những việc kích động này trong một thời gian dài. Không có gì
trở ngại trong việc lắng nghe dân chúng bày tỏ ý kiến, quan điểm để từ
đó sự thật tự nó phục hồi. Cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, đức Phật
đã biết khai thác cơ sở lập luận quan trọng này.
Người trí có thể ngăn chặn bạo lực phát sinh trong
một số trường hợp nào đó chính là nhờ nền tảng chính trị mà họ hấp thu
được, đã khiến họ nỗ lực một cách bản năng để ngăn ngừa hậu quả khủng
khiếp mà chiến tranh hay bạo động gây ra. Vì có sự kiểm soát xã hội nên
một số người có những suy nghĩ hay hành động lệch lạc với chuẩn mực xã
hội đã tự kiềm chế mình, tự động điều chỉnh mình phù hợp với chuẩn mực
đạo đức. Sự thượng tôn pháp luật không mất đi trong tâm trí họ. Một nhà
lãnh đạo có trí sẽ cố gắng hết sức kêu gọi sự đoàn kết của người dân,
khiến cho người dân nhận thức được trách nhiệm của mình. Bạo lực chỉ
phát khởi trong nhóm người thiếu vắng mục đích chân chính, không có tính
kỷ luật và những người thường viện cớ này nọ để phàn nàn, ca cẩm.
Nếu những điều kiện về kinh tế, chính trị và xã hội
ổn định thì không có lý do nào khiến người dân tìm đến bạo lực để đạp đổ
hệ thống xã hội. Trong đa số các trường hợp, khuyết điểm thường xuất
phát từ chính quyền hay nhà lãnh đạo, và nếu họ lại sử dụng bạo lực để
đối phó thì chính họ tự đào thải mình chứ không phải do xã hội. Ngày
nay, bạo lực là một vấn đề nhạy cảm và rất phức tạp vì nó thường liên
quan đến cả một hệ thống chứ không nằm riêng rẽ. Giáo lý Phật giáo nhấn
mạnh đến việc giáo dục cá nhân để khống chế sự lan truyền của bạo lực ở
mức thấp nhất. Dĩ nhiên, việc đó khó có thể triệt tiêu một cách hoàn
toàn nhưng nó có thể được kiểm soát và ngăn chặn không dẫn tới sự xáo
trộn của cả quốc gia.
Ánh sáng từ giáo lý Phật giáo sẽ giúp chúng ta xác
định được nguyên nhân của bạo lực và sử dụng các nguyên nhân này vào
việc kiềm chế các hành động bạo lực và khủng bố:
1. Kinh tế là biện pháp để giảm thiểu sự đói nghèo và đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của con người.
2. Một hệ thống xã hội mà nơi đó mọi người đều có quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên vật chất và tinh thần.
3. Một hệ thống chính trị mà người dân có quyền bày tỏ ý kiến cũng như tham gia vào các quyết định quan trọng của quốc gia.
4. Dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, nhà nước và chính quyền không được vi phạm hiến pháp và pháp luật.
Thuốc giải độc hữu hiệu nhất đối với các hành vi bạo
lực và khủng bố luôn có trong các quy định của pháp luật một quốc gia.
Có lẽ đó chính là hàm ý mang tính xã hội và chính trị trong câu nói của
Phật giáo: Luật pháp chính nó bảo vệ cho người tuân thủ nó.
Khái niệm bất hại trong Phật giáo bao hàm cả việc
không làm tổn thương đến tất cả mọi loài hữu tình hoặc tránh gây thương
tích, đàn áp áp bức hay chê bai khinh thị. Khái niệm này không những
không bị hạn chế như trong giới thứ nhất của năm giới Phật giáo (không
sát sanh) mà còn bao hàm cả bốn giới còn lại. Trộm cắp hay chiếm đoạt
tài sản của người khác cũng vi phạm nguyên tắc bất bạo động. Quan hệ bất
chính với đàn ông (hay đàn bà) không phải là chồng (hay vợ) mình cũng
làm tổn thương người khác. Và nói dối cũng thế.
Câu nói ‘Ahimsa paramo dhamma’ nghĩa là ‘bất hại là
một pháp tối thượng’, ngụ ý rằng, nhân tố đạo đức chính là trụ cột của
luật pháp. Điều đó một lần nữa khẳng định rằng quyền của con người là
nền tảng của luật pháp một quốc gia, nó ngăn chặn chúng ta phạm tội
chống lại nhân loại. Vì thế, bất hại là một trong những diễn dịch cao
nhất về nhân quyền(8).
Bất hại không chỉ là hạn chế hay tránh gây thương
tích v.v.. cho người khác mà còn bao hàm cả một triết lý sống tích cực
đó là thực hành sự thân thiện, giúp đỡ mọi người và đem tình thương đến
với mọi người. Lòng từ bi hay sự thân thiện đó bắt đầu cho chính bản
thân mình sau đó lan tỏa đến những người khác. Lòng thương người hay sự
thân thiện này phải có mặt trong tư tưởng, lời nói và hành động và tu
tập để ngày càng tăng trưởng. Vì thế, bất hại có mặt trong tất cả phương
diện đời sống xã hội, và thể hiện trong mọi khía cạnh.
Trong chuyện Tiền thân Rājovāda(9) có một thí dụ minh
họa cho việc giải quyết sự thực tập pháp bất hại này. Trong câu chuyện
này, sự tranh chấp xuất hiện trong một tình huống bình thường. Hai người
đánh xe ngựa của hai vị vua nước láng giềng gặp nhau trên cây cầu. Vì
cây cầu chỉ đủ chỗ cho một xe ngựa đi qua cho nên họ đã cãi nhau để
giành quyền đi trước. Cuộc cãi vã xung quanh các vấn đề như vị vua nào
hùng mạnh hơn, so sánh sự giàu sang, địa vị xã hội, uy tín, đất đai…Tuy
nhiên, cả hai vị vua đều hùng mạnh và giàu sang như nhau. Cuối cùng, họ
so sánh về giới đức xem ai thù thắng hơn. Người lái xe thứ nhất nói: Đức
vua của chúng tôi dùng “Cứng rắn đối với cứng rắn; mền mỏng đối với mền
mỏng; thiện đức đối với thiện đức; bất thiện đối với bất thiện”. Người
lái xe thứ hai nói: Vua tôi cư xử như sau: “Lấy không giận thắng giận;
lấy thiện thắng không thiện; lấy thí thắng san tham; lấy chơn thắng hư
ngụy”. Thế là, vị vua đầu tiên cùng người lái xe của mình đồng ý vị vua
thứ hai có giới đức cao hơn nên nhường chỗ để xe ngựa đi qua.
__________________________________
1. DhP., 129-131 theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
2. DhP., 138-140 theo bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu
3. Sn.1,83
4. J. 357
5. M.III, 267-66…Bạch Thế Tôn, nay con đã được Thế
Tôn giáo giới với lời giáo giới vắn tắt, có một quốc độ tên là
Sunāparanta, con sẽ sống tại đấy. Này Puṇṇa, người nước Sunāparanta là
hung bạo, thô ác. Nếu họ mắng nhiếc, nhục mạ Ông, thời này Puṇṇa, tại
đấy Ông sẽ như thế nào?
- Bạch Thế Tôn, nếu người nước Sunāparanta
mắng nhiếc, nhục mạ con, con sẽ nghĩ như sau: “Thật là hiền thiện, Thật
là chí thiện, người nước Sunāparanta này! Vì rằng họ không lấy tay đánh
đập ta”. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
- Nhưng nếu họ lấy tay đánh đập Ông, thời Ông sẽ nghĩ như thế nào?
- Bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như sau: “Thật là thiện, Thật là chí thiện,
người nước Sunāparanta này! Vì rằng họ không lấy các cục đất ném đánh
ta”. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy!
- Nhưng nếu họ lấy các cục đất ném đánh Ông, thời Ông sẽ nghĩ thế nào?
- Bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như sau: “Thật là hiền thiện, Thật là chí
thiện, các người nước Sunāparanta! Vì rằng họ không lấy gậy đánh đập
ta”. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
- Nhưng nếu họ lấy gậy đánh đập Ông, thời Ông nghĩ thế nào?
- Bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như sau: “Thật là hiền thiện, Thật là chí
thiện, các người nước Sunāparanta! Vì rằng họ không lấy dao đánh đập
ta”. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
- Nhưng nếu họ lấy dao đánh đập Ông, thời Ông nghĩ thế nào?
- Bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như sau: “Thật là hiền thiện, Thật là chí
thiện, các người nước Sunāparanta! Vì rằng họ không lấy dao sắc bén đoạt
hại mạng ta”. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.
- Nhưng nếu họ lấy dao sắc bén đoạt hại mạng Ông, thời Ông nghĩ thế nào?
- Bạch Thế Tôn, con sẽ nghĩ như sau: “Có những đệ tử của Thế Tôn, ưu
phiền và nhàm chán thân thể và sinh mạng đi tìm con dao (để tự sát). Nay
ta khỏi cần đi tìm đã được con dao ấy”. Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ
nghĩ như vậy.
- Lành thay, này Puṇṇa, Ông có thể sống trong nước
Sunāparanta, khi Ông có được đầy đủ sự nhiếp phục và an tịnh này. Này
Puṇṇa, Ông nay hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.
6. J. 313
7. M I, 501-13
8. G.P. Malalase Kana, Sambhāshā, 1991,269
9. J. 151
Trích từ XÃ HỘI HỌC PHẬT GIÁO
(Tác giả: Nandasena Ratnapala; Người dịch: Thích Huệ Pháp