Phỏng vấn họa sỹ Phan Cẩm Thượng

“Cuộc đời như giấc mộng...”

23/08/2010 09:00 (GMT+7)
Số lượt xem: 6278
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Một buổi sáng đột nhiên thật dịu mát của mùa hè Hà Nội, anh dẫn chúng tôi qua cầu Long Biên, về lại với những dòng sông yên ả, về với làng Gióng, về với sư thầy của chùa Kiến Sơ, tổ đình của thiền phái Vô Ngôn Thông, nơi xưa kia Lý Công Uẩn tu tập… Nhìn hai thầy trò ríu rít trò chuyện bằng lối nói nhà quê thân thuộc, chuyện lớn chuyện nhỏ gì trong chùa sư thầy đều đem ra hỏi ý kiến, nhờ cậy anh, mới hiểu tình yêu Phan Cẩm Thượng dành cho làng quê da diết đến chừng nào

Sau một loạt sách nghiên cứu mỹ thuật cổ Việt Nam, lý do gì khiến anh chuyển hướng sang nghiên cứu về nghệ thuật đời thường?

Với tốc độ phát triển quá nhanh của một xã hội công nghiệp, tôi nhìn thấy những dòng sông đang cạn dần và chết, những cánh đồng chen lẫn nhà máy đổ nước thải tự do, những bãi bồi đầy lò gạch và những người nông dân bất đắc dĩ trở thành thị dân… Đặc thù văn hoá dân tộc đang bị thu hẹp thay thế bằng văn hoá toàn cầu, nông thôn cổ bị phá vỡ bằng những đô thị mới, và khoảng cách giàu nghèo ngày một tăng lên… Trước sau gì thì làng xã truyền thống cũng tan rã, nhưng người nông dân sẽ ra sao và nền văn minh Việt sinh ra từ làng xã sẽ ra sao? Thẩm mỹ luôn gắn chặt với đời sống, nhưng chỉ cần tìm hiểu trước đây 20 năm thôi, người Việt sống, ăn ở, mặc… thế nào cũng đã rất khó khăn, chưa kể những sinh hoạt văn hoá. Từ cày cuốc, rổ rá, chén bát, đến trang phục, trang sức, xe cộ, đường sá, nhà cửa… cũng đã mất gần hết, có chăng chỉ còn trong bảo tàng. Với hai tác phẩm Nghệ thuật ngày thường, Văn minh vật chất của người Việt, và tham gia viết lời bình bộ phim tài liệu 24 tập Đi tìm trang phục Việt (TFS), tôi chuyển sang nghiên cứu xã hội rộng hơn, đồng thời gắn bó hoạt dộng nghệ thuật với nhiều mặt xã hội nói chung, để tìm ra những quy luật sống nhất định có thể xảy ra trong thời gian dài.

Câu chuyện Hà Nội mở rộng cũng chính là câu chuyện người nông dân ở phố, anh nhìn thấy điều gì liên quan đến từng số phận con người?

Chuyện người nông dân trở thành thị dân là một chuyện lớn. Khi làng trở thành phố, người ta thường nhìn thấy mặt tốt của nó, nhà cửa to hơn, đường sá sạch sẽ hơn, nhưng ít ai quan tâm người nông dân sẽ làm gì khi không làm nông nghiệp hay làm ruộng? Các lề lối, đạo đức gia phong của làng bỗng dưng mất đi, họ trở thành dân “vô chính phủ”, chẳng cần biết luật giao thông, chẳng cần biết đến an toàn thực phẩm. Không một chuẩn bị nào cho người nông dân bước vào nền sản xuất và sinh hoạt mới là mặt dở khó chữa nhất của làn sóng đô thị hoá quá nhanh. Chính sự không chuẩn bị đó làm cho sự đổ vỡ diễn ra mau hơn. Cái lãi về kinh tế sẽ không bù lại được cái lỗ về môi trường, đạo đức nhân văn. Nông thôn Việt Nam luôn luôn là nơi phức tạp, đầy biến động, kể cả trong chùa. Đó là một bể dâu chìm nổi, không giản đơn như vẻ ngoài bình yên của nó. Chẳng ở đâu cọ xát với dân chủ, đạo đức, lối sống, tập tục, quan lại tham nhũng như ở nông thôn.

Anh nghĩ gì về vai trò của người trí thức để nâng cao dân trí cho một đất nước hơn 80% là nông dân? Người trí thức đã thực sự nói được tiếng nói của mình?

Nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Quân:

Thiên về nghệ thuật cổ cả trong nghiên cứu và sáng tác, nhưng hoạ sĩ cũng là một người đương thời, dấn thân, rất hữu trách với mọi thứ tân kỳ, mọi thế sự của nhân gian trước mắt.

Hoạ sĩ Nguyễn Anh Tuấn:

“Thường nhân sống trên cõi đời chỉ là để đi đến cái chết, chẳng có mấy ai sống để trưởng thành. Những người trưởng thành như những cây đại thụ khổng lồ cắm sâu chiếc rễ của mình vào mảnh đất mẹ, vào nền văn hoá thâm sâu của dân tộc và nhân loại, mới là những người có cuộc sống vĩnh hằng bất tử” – câu này của thiền sư Osho (người Ấn, 1931 – 1990), tôi thích và tôi nghĩ rằng nó đúng với thầy Thượng.

Hoạ sĩ Lê Thiết Cương:

Vừa là hoạ sĩ, nhà phê bình, nhà nghiên cứu, cái hay của anh là đứng ở giữa để đưa ra ý kiến mà trước đó chưa ai nói được: Mỹ thuật cổ của người Việt là mỹ thuật ở làng. Điều quý giá hiếm hoi là anh đã tạo ra được lứa học trò tiếp thu được niềm đam mê với mỹ thuật cổ và văn hoá Việt từ anh.

Người trí thức phải tình nguyện đi về nông thôn, lăn lộn rất nhiều với nông dân mới có thể giúp nông dân một cách hữu dụng cả về kinh tế và nghệ thuật, từ nghệ thuật xây nhà, gìn giữ môi trường, đến gìn giữ những di tích cổ. Nhà nước cũng dành nhiều công trình khoa học thiên về kinh tế, chứ ít đầu tư những công trình về khoa học nhân văn.

Nói chung, trí thức Việt Nam có thể cảm thấy tiếng nói của mình không hiệu quả gì, nên không nói, hoặc nói bằng cách khác. Cách nói của tôi là nhìn những vấn đề xã hội bằng nghệ thuật. Xã hội bất ổn bởi quá nhiều vấn đề, nhưng có thể giải quyết từng phần, mà quan trọng nhất là xây dựng ý thức cho từng người dân để gìn giữ môi trường sống và môi trường văn hoá, có như vậy dân tộc mới lành mạnh. Nếu người dân coi chuyện đút lót là đương nhiên, nếu quan chức coi chuyện vơ vét của dân là bình thường, sẽ tạo ra sức huỷ hoại vô cùng đáng sợ. Trong mỗi một con người phải có một chút tôn giáo để biết nhân quả, hiểu cuộc đời chỉ là tương đối, nếu không người ta sẽ lao theo vật chất không biết dừng.

Có nhiều người cay đắng than thở rằng “thời buổi này cái gì không giải quyết được bằng tiền, thì giải quyết bằng… rất nhiều tiền”. Là một hoạ sĩ, một nhà giáo, anh có thấm thía nỗi đau đó không?

Có tình trạng thi cử thì đút lót, làm ăn thì tham nhũng, văn hoá thì chạy theo bề nổi, không thực chất, muốn xem bức tranh đẹp cũng chẳng biết xem ở đâu. Biết bao nhiêu người có trình độ mà không phải là giáo sư tiến sĩ, và ngược lại, biết bao giáo sư tiến sĩ không có trình độ. Hai “khu vực” ấy càng không chơi được với nhau thì những giá trị thật càng không có khả năng lộ diện.

Trong kinh tế thị trường, ai có thực nghề thì ít nhất cũng có cuộc sống trung bình. Tôi từng có rất nhiều tiền, nhưng nói chung là không có tiền. Tôi không nhận của ai một đồng nào nếu đó không phải là tiền mình làm ra. Là một trí thức, lo lắng, cống hiến cho xã hội mới khó, còn cuộc sống cá nhân thì vui buồn cũng chỉ thoảng qua thôi…

Trong thời buổi nhiều người hốt hoảng vì khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng đời sống cá nhân, anh có bao giờ rơi vào khủng hoảng?

Không. Chỉ buồn thôi, chứ không tới mức khủng hoảng. Tôi học Nho giáo, học đạo Phật từ bé nên đã xây dựng cho mình một quan niệm sống rõ ràng, coi cuộc đời như giấc mộng. Hoặc mộng lành, hoặc mộng không lành, có gì mà hốt hoảng. Chỉ có một nỗi buồn lớn nhất là con đường phát triển của dân tộc hiện tại đã phá huỷ môi trường, văn hoá tinh thần mạnh quá. Dòng chảy theo đuổi kiếm tiền cũng mạnh quá, ít ai quan tâm đến việc thưởng thức nghệ thuật, làm giàu có cho tâm hồn. Chẳng lẽ con người sống nghèo nàn đến thế sao. Tôi từng xem chương trình giới thiệu thành phố Thành Đô bên Trung Quốc, ở đây họ chủ trương sống ít tiền để hạnh phúc. Kiếm tiền vừa phải, xây dựng ít, dành thời gian đi xem phim, học nhảy, đi hát. Đây cũng là thành phố có truyền thống về đạo Lão, tu tiên. Cả thành phố đã trải qua một trận động đất, bao nhiêu tích cóp tan tành trong chốc lát, nên họ hiểu hơn ai hết rằng nếu không biết thưởng thức cuộc sống ngay lúc này mà chỉ biết kiếm tiền thôi thì chết đi cũng chẳng biết cuộc đời hay dở thế nào.

Từng trải qua một tuổi thơ nghèo khó, phải gánh từng gánh nước thuê kiếm tiền nuôi sống bản thân, bố mẹ lại chia tay nhau, làm cách nào anh có thể tự học để tạo ra phong cách khác biệt trong tranh, và lựa chọn được cách sống trung dung, tự tại?

Học cái gì mình thích sẽ giỏi, sẽ sống được. Muốn thế, phải dũng cảm theo đuổi tới cùng. Ngay từ nhỏ tôi đã thích nghệ thuật, mê chữ Hán, mà cái ấy nhà trường không dạy. Đến trường môn nào tôi cũng mấp mé trượt, chẳng học được gì, thế là tôi quyết định tự học. Tôi không học vẽ theo kiểu nhà trường, cũng không học vẽ theo kiểu Tây phương, mà học theo lối vẽ dân gian, tranh thờ, các phù điêu đình làng, tượng Phật… Về kỹ thuật, tôi ảnh hưởng trường phái Phục hưng, hội hoạ lập thể và Mêhicô, nhưng phẩm chất, tình cảm thì hoàn toàn phương Đông.

Nhà có chín anh em, tôi đã trải qua những ngày dài bị đói khủng khiếp, chỉ có một nỗi ám ảnh là làm thế nào qua được những cơn đói. Muốn bình tâm lại, phải rèn luyện mới có được, vì cuộc sống lúc nào cũng như ngựa chạy. Thiếu một tí cũng được, vẽ tranh, đi du ngoạn, đọc sách để hiểu biết thêm cần thiết với tôi hơn. Vả lại tôi sống cũng giản đơn, không uống rượu, không ăn nhiều, quần áo có gì mặc nấy, chấp nhận sống thế. Nhưng tôi rèn luyện sức khoẻ hàng ngày, để không bị ốm, không phải đi bệnh viện, vì tôi chẳng có bảo hiểm y tế! Sống vui vẻ, khoẻ mạnh, nhiều nhu cầu về phía văn hoá nghệ thuật, tinh thần mạnh thì tất cả cái khác cũng tốt lên theo. Viết, vẽ, dạy học là ba công việc mà tôi làm đều đặn, thường xuyên, để sống được, và để theo đuổi nghệ thuật.

Cuộc đời anh gắn với những ngôi chùa, điều gì đã khiến anh rời bỏ chốn thị thành, để tâm vào việc gìn giữ những báu vật cổ xưa?

Mỗi người chúng ta sống giỏi lắm được 100 năm. Tìm về những di tích cổ, hiểu biết quá khứ, có một nhìn nhận xa hơn về tương lai chính là khả năng sống quá cuộc đời thực của mình. Càng hiểu biết sâu càng làm cho đời sống tinh thần viễn vọng hơn. Đó cũng là cả một quá trình học, từ chỗ thấy nó đèm đẹp đến lúc đọc được nó. Mỗi chiếc bình cổ là cả một câu chuyện, một tâm tình, giúp ta gần gũi với con người của hàng trăm, hàng ngàn năm trước. Một ngôi chùa là một câu chuyện khác nhau, phải sống ở đó đủ lâu để hiểu nó, mới có khả năng gìn giữ nó. Chùa Bút Tháp là nơi gắn với số phận tôi, nơi tôi chia sẻ nhiều nhất, cũng là quê ngoại của tôi. Đây là nơi tôi ở lâu nhất, giống như trở về nhà. Nhưng cũng đau lắm vì nhiều nơi không giữ được di tích, hàng trăm ngôi chùa bị phá đi, sơn phết lại tất cả, người ta đem những tượng Phật mới tinh, trắng phau ra trưng nhìn nhức mắt lắm.

Hoạ sĩ Lương Xuân Đoàn trong một bài viết đã gọi anh là người “tu dở”, nhưng đọc những tác phẩm anh viết, thấy anh luôn dấn thân một cách điềm đạm và kiên định?

Có lẽ do tôi ở trong chùa quá lâu, nhưng như thế không có nghĩa là tôi đi tu, tôi đến chùa để biết, để nhắc nhở mình cuộc sống là vô thường, sau đó là đi về, chứ đó không phải là nơi chốn của mình, không phải cái đích mình đi đến. Cuộc sống có gì thì mình sống như thế, không đi trốn.

Đọc những bài anh viết về chân dung các hoạ sĩ, thấy anh có vẻ rất gần bạn, rất hiểu bạn?

Tôi chỉ xem tranh, trông mặt, không cần phải gần gũi họ nhiều, như ông Nguyễn Sáng, cả đời tôi mới gặp vài chục phút, để viết Em bé da đen. Đọc được người khác khó lắm, tôi chỉ đọc được trên phương diện nghệ thuật, còn chuyện đời tư thì chịu. Nghệ thuật không thể nói dối được, càng nói dối càng lộ diện. Tôi không có nhiều thời gian dành cho bạn, nhà tôi cũng ít ai đến chơi. Thực ra cuộc sống cũng chẳng phức tạp như mình hay suy nghĩ, người ta phí phạm nhiều thời gian vào những chuyện không đâu. Tôi chỉ cố gắng làm một số việc cho ra hồn, còn thì đi du ngoạn, ngắm nhìn cho sung sướng.

Anh “nhận” được gì từ những chuyến đi? Nếu có một điều ước, anh sẽ ước gì?

Đi để hiểu được những dân tộc khác, những nền văn hoá có quan hệ với văn hoá mình. Tôi đi Mỹ nhiều lần, nước Mỹ là nơi phản chiếu nhiều điều của nhân loại, phải đi mới biết mình thiếu cái gì. Người Mỹ rất cẩn trọng, lao động chuyên cần, sáng tạo, học hành tự do, luật pháp nghiêm khắc. Đây cũng là đất nước số một về đầu tư nghiên cứu văn hoá toàn thế giới. Thế nhưng một người bạn Mỹ của tôi lại chọn Zimbabwe để cống hiến phần đời còn lại. Khi tôi hỏi bà cuộc sống ở đó có khó khăn lắm không, bà hỏi ngược lại tôi: “Anh tưởng ở Boston cuộc sống dễ dàng hơn à? Tôi không nghĩ nơi nào khó khăn hơn nơi nào. Người Việt Nam nghĩ gì về cuộc sống?” Tôi trả lời bà: “Khó khăn nhất không phải là thiếu tiền, cuộc sống chất lượng kém, mà chính là không nhìn thấy tương lai”. Một bà già 60 tuổi mà xông vào một vùng đất hoang vu như thế để dạy lũ trẻ con suốt ngày nặn những chú ngựa vằn đồ chơi cho trẻ nhỏ cũng có cái sướng riêng của bà… Mỗi người phải tự tìm ra chốn bình yên của mình thôi, đừng để tâm hồn mình bị hỏng thì rất khó chữa trị.

Bạn & tôi

Thưa anh Phan Cẩm Thượng, cách đây vài năm tôi tình cờ đọc được cuốn Chùa Dâu và nghệ thuật Tứ pháp của anh, tôi cứ nghĩ anh đã đi tu thật rồi. Không ngờ, mới đây được đọc bài báo trên Sài Gòn Tiếp Thị, mới thấy, hoá ra anh đang “tu giữa chợ đời”. Cho tôi hỏi, để có đủ bản lĩnh và ý thức nhận ra những giá trị thật, giả giữa đời thường, phải cần những yếu tố nào? Để có một tinh thần mạnh mẽ như anh, liệu có cần ăn chay, niệm Phật?

Nguyễn Ngọc Trân - 76/10/14 Phan Tây Hồ, Q. Phú Nhuận, TP.HCM

Từ nhỏ tôi đã nghe câu: Nhà cửa vạn gian ngả lưng ba thước. Thóc lúa đầy kho cơm bữa ba thưng. Càng lớn lên tôi càng hiểu người ta không cần quá nhiều tiền hay vật chất nói chung để sống, mà cần rất nhiều những giá trị tinh thần. Cái đó hoá ra lại dễ thấy: thiên nhiên, thơ văn, tranh ảnh, đời sống tình cảm, và nếu ta ngay từ nhỏ lấp đầy tâm hồn mình bằng những giá trị văn hoá đó, càng ít chỗ nghĩ đến miếng cơm, manh áo và chuyện thị phi. Ngược lại, tinh thần phong phú thì cũng không cần nhòm ngó sang người khác, cũng như có khả năng sống tốt bằng trình độ của mình.

Điều đáng tiếc là con người bây giờ ngay từ nhỏ đã đầy đầu những thứ không cần thiết. Trẻ con học nhiều quá, trong khi các kiến thức khoa học và nhân văn cơ bản hoá ra lại không phải học nhiều, cứ thế mà thông minh trong cái u mê của mình, có thể đạt được rất nhiều thứ, bằng cấp, địa vị, tiền bạc, nhưng trong lòng lại trống rỗng, khi buồn chẳng biết kêu ai, khi ốm là đến bác sĩ, uống thuốc, không biết cách tự làm cho mình khoẻ.

Tôi nghĩ rằng để nhận ra điều thật giả không khó, hai mặt đó lại là một phần của cuộc sống, nhưng nhận ra rồi thì có dám sống với cái thật không mới khó. Bản thân tôi cũng vậy. Tôi nghĩ không nhất thiết phải ăn chay, niệm Phật. Ăn chay hay ăn mặn là tuỳ theo thói quen và sức khoẻ của mình, không liên quan đến việc tu hay không. Còn niệm Phật để định tâm thì rất tốt, tự làm cho mình thanh tĩnh lại, nhưng chọn lấy một vài bộ kinh Phật có giá trị đọc hiểu càng tốt hơn, ví dụ như kinh Kim Cương, trong đó không có chút nào nói về thần thánh sự linh thiêng, mà chỉ nói về sự nhận thức chân thực.

Tôi rất đồng tình với lời nói thật của anh “Khó khăn nhất không phải là thiếu tiền, cuộc sống chất lượng kém, mà chính là không nhìn thấy tương lai”. Thế hệ 7X của chúng tôi lớn lên và cảm thấy bất an, chuệnh choạng vào những năm đầu thập niên 90 – thời đất nước mới mở cửa. Nhiều luồng văn hoá du nhập trộn lẫn với việc cổ xuý mọi người làm kinh tế để kiếm tiền, và tôi cảm thấy mình bị xay nghiền trong những “trào lưu” đó, chính vì thế, chúng tôi phải đi học yoga, thiền, khí công… để tự cân bằng, tự đứng được. Nhưng quả thật, càng sống càng thấy hụt hẫng… Rất mong anh cho tôi một lời chia sẻ.

Thạch Thảo - 15 Nguyễn Công Trứ, Nha Trang

Cũng như mọi người tuổi trung niên, tôi cũng trải qua thời thơ ấu gian nan và lúc nào cũng băn khoăn có việc làm, kiếm được tiền, song cuối cùng tôi mới thấy cách sống thế nào mới quan trọng. Vì thế nào ta cũng phải làm nghề gì đó, tiền cũng sẽ có ít hay nhiều. Tôi chọn nghệ thuật và nghiên cứu văn hoá cổ, làm bằng được dù cuộc sống như thế nào. Nhưng đó cũng không phải lối thoát, mặc dù sống với nghệ thuật hay vô cùng, rất tự do và toàn cái đẹp.

Các triết gia Ấn Độ cho rằng từ thượng cổ đến nay, con người toàn được dạy cái bên ngoài mình, còn chính mình, bên trong mình là ai thì không bao giờ học, không hay biết gì cả. Tôi từng đi hội thảo xa với rất nhiều vị giáo sư tiến sĩ, mỗi vị mang theo một bọc thuốc, phòng không có máy điều hoà là không ngủ được, bàn rất nhiều chuyện to tát, nhưng hơi ốm một tí là cuống lên.

Yoga hay thiền, khí công trước tiên là lối sống, sau đó mới là những phương pháp rèn luyện sức khoẻ. Lối sống đó đòi hỏi người ta quay về với bản thân mình, bao gồm cả việc hiểu gan thận mình đang ra sao, và từ bỏ những cái bên ngoài, những vật ngoại thân. Tôi nghĩ trong hoàn cảnh của chúng ta, rất nhiều người đang loạn tâm, nên cứ điềm tĩnh nhìn xung quanh và việc gì có ích cho cộng đồng thì làm.

Phan Cẩm Thượng


Âm lịch

Ảnh đẹp