số tài sản trị giá
ít nhất là 1.900 tỉ đồng (bằng 2 năm tổng thu ngân sách của tỉnh) bị vùi
trong nước bạc. Song, riêng chuyện hơn ba nghìn người dân xã Tân Hoá,
huyện Minh Hoá bị nhấn chìm toàn bộ nhà cửa và những... ngọn cây cau,
cột điện cao thế trong gần 10m hoặc có chỗ hơn 10m nước sâu để vào trong
hang đá lánh nạn - như tổ tiên mình "thời tiền sử" - thì đúng là chưa
từng có.
|
Người già, trẻ em, tại khu vực "hang đá tiền sử" - cả xã Tân Hóa có
khoảng 3.000 người phải rời nhà cửa bỏ vào hang sống - Ảnh: Hà Bình |
Khi tôi viết những dòng này, thì hay tin, xã Tân Hoá nơi tôi vừa
chia tay lại chìm trong biển nước, cả người dân và lãnh đạo địa phương
đều chăm chăm một kế hoạch trở về hang đá nếu nước tiếp tục dâng. Nhiều
người đã tính dựng lều, xây hũ gạo trong hang đá để thường trực đối phó
với thảm họa. Đằng sau sự luẩn quẩn xóm làng - nhà cửa - hang đá thời
tiền sử này, là một câu chuyện rất lớn khác về cái cách chúng ta ứng xử
với thiên nhiên, đối phó với thảm họa.
6 ngày và nhiều nghìn năm “tiền sử”!
Cách TP.Đồng Hới (tỉnh lỵ Quảng Bình) chừng 130km, xã miền núi Tân
Hoá hoang tàn, với những ngôi nhà nằm chỏng gọng sau cơn lũ ác. Mấy chục
mạng người bị lũ cuốn trong tỉnh, xã Tân Hoá may mắn không mất một ai;
thậm chí, hy hữu thay, trong thời gian sống trên nóc nhà (khi lụt, chỉ
có trạm xá và trường học cao tầng của xã là còn nhô lên mặt nước, 100%
nhà dân biến mất trong biển nước) và trong hang đá, có 3 đứa trẻ đã được
ra đời. Ông Bùi Anh Tuấn - Chánh văn phòng UBND huyện - xác tín điều
đó với tôi, rồi kể: “Có người trở dạ, được cán bộ trạm y tế đỡ đẻ, cắt
rốn ngay trên mái của nhà trường, xung quanh căng nylon ngăn cơn mưa như
trút nước. Người Tân Hoá sống sót, bởi họ túc trực kê bên vách một cái
thuyền nan hoặc thuyền tôn. Thế nên, khi nước dâng cao, họ leo cả lên
thuyền bỏ chạy”. Cả xã, hơn 3.100 người, không một ai mang được cái gì
theo người.
|
Một lán căng nylon của người Tân Hóa ở trong lèn núi, khi mà 100% các ngôi nhà của họ "biến mất" trong biển nước. Ảnh: Hà Bình |
Không có thức ăn, không củi lửa, cũng không có quần áo để thay. Sống
sót là may rồi. Từ trong các lèn đá, hang hốc của núi đá vôi, bà con
nhìn xuống các xóm của xã mình. Nước lưng nhà, rồi lút nóc nhà, rồi chỉ
còn cái ngọn cây cau và nóc trường học nhô lên. Tất cả biến mất như một
cơn mơ ác. Mưa mỗi lúc một lớn, mái đá tiền sử không phải là hang sâu,
nên không có khả năng che mưa gió. Quần áo ướt suốt đêm ngày, không có
quần áo mà thay. Họ nằm run nhong nhóc. Cái đói xâm chiếm dần.
Suốt 2 ngày không có gì ăn, nước dâng đến chân lèn đá, nhưng đó là
nước lũ, xác súc vật nổi lềnh bềnh, không uống được. Có người tình cờ
đem theo điện thoại di động, gọi kêu cứu, lát sau thì trạm tiếp sóng,
trạm truyền thanh đều bị nước lũ làm cho tê liệt. Bà con chỉ biết nằm
“chắp tay chờ số phận”. Sau 2 ngày đói khát, thì họ bắt đầu nhìn thấy sự
sống, với những chiếc canô của lực lượng cứu trợ rẽ nước tìm vào. “Cán
bộ mải miết đi tìm dân, nước trắng trời, dân thì bặt vô âm tín. Dân
chúng tôi như là trở về thời nguyên thuỷ rồi, không còn cái gì sót lại ở
nơi này cả!” - ông Phó Chủ tịch UBND huyện Minh Hoá nói với nhà báo
trong lúc nước sôi lửa bỏng nhất.
Một vài thứ còn nhìn thấy được trong đại hồng thuỷ, ấy là các mỏm
núi trọc, các hang đá tiền sử và những người dân tội nghiệp lay lắt, tím
tái. Mì tôm và nước sạch được chuyển lên dè dặt giúp bà con “gặm” mì
tôm mà cầm cự. Có người già kiệt sức, lả đi, thế là chính các canô cứu
trợ sau khi thả hàng vào cửa hang thì “khênh” luôn người ốm ra tuyến
ngoài điều trị. Trẻ em và người già nằm la liệt, nhiều người bị tiêu
chảy xanh rớt, thều thào. Cây củi biến thành cọc lều bạt, nylon căng
tạm, bạt thủng lỗ chỗ, trong lều cũng như ngoài trời; bệnh đau mắt đỏ,
sốt dịch, tiêu chảy bắt đầu hoành hành, bà con không được tắm giặt, thay
quần áo suốt gần 1 tuần, họ phóng uế ở ngay gần khu trú thân. Canô cứu
trợ đi đến đâu cũng thấy tiếng gào khản giọng, những bàn tay vẫy lên kêu
cứu; xác lợn chết, trâu, bò chết nổi lềnh bềnh nhiều trăm con.
Ông Sơn - một người dân Tân Hoá ở trong lèn đá - bảo, có lẽ suốt đời
ông bị ám ảnh bởi cảnh ông và bà con đói quá, vớt một con trâu chết nổi
lềnh bềnh trên mặt nước lũ về rồi xẻ thịt, nướng ăn trong lèn đá. Họ
cầm cái chân trâu chết, hơ vào lửa lom dom lá lẩu, chờ nó chín “tai tái”
rồi chia nhau ăn. Bởi, suốt những ngày đói rét, sợ hãi, tuyệt vọng, nếu
không ăn thì “cách gì mà sống làm người được”. 2 ngày sau, huyện mới
tìm thấy dân để “ném” mì tôm vào cửa lèn đá, bấy giờ nhiều cháu bé mệt
lả, đói đến mức phải cạy miệng cháu ra, bơm sữa vào để cứu.
Những đứa trẻ sinh ra trên mái nhà!
Một ông bố trẻ bảo, anh đang tính sẽ đặt tên đứa trẻ được sinh ra
trên mái nhà, vào thời điểm cuối năm 2010 này là “Lũ Lụt” để làm kỷ
niệm, giống như thời gian khó ta từng có quá nhiều người được sinh ra,
rồi đặt tên là Ruộng, Đồi, Chiến Thắng... (vì được sinh ra khi người phụ
nữ đang đi làm ở ngoài đồi, ruộng, trong khi tất cả chung sức đánh
thắng kẻ thù...). Ông Chất - Chủ tịch UBND huyện Minh Hoá - vừa triết lý
về đứa trẻ đẻ trên mái nhà, vừa lo lắng về việc nước rút rồi, vài tháng
sau bà con không biết lấy gì sinh sống, ngoài việc ngồi chờ tiền, hàng
cứu trợ, bởi ngô lúa giống, tư liệu sản xuất, trâu bò, lợn gà, tiền bạc
của nả... trôi theo lũ hết sạch.
Đứng trong lèn, tôi vẫn trông thấy cái cột điện cao thế thò một đầu
mẩu lên giời mà. Anh Huy sống ở thôn 2, xã Tân Hoá, với 65 hộ dân. “Nước
lên nhanh đến mức chúng tôi chỉ kịp chạy thoát thân. Chui vào hang đá,
rồi cứ leo mãi lên đỉnh dốc, nước ở sau chân. Suốt 6 ngày, khổ nhất là
cháu bé con anh Trương Quốc Anh, nó mới được 1-2 ngày tuổi, chưa kịp đặt
tên, chưa khô cuống rốn, đã phải vào hang. Mẹ cháu (chị Tuyết) ướt suốt
ngày đêm, nằm khóc ủ con trong bụng, bà con thương lắm, cũng chẳng biết
làm sao - anh Huy nói. “Điều anh lo nhất lúc này là gì?”; mân mê những
mẹt ngô giống bốc mùi thum thủm chỉ có thể nghiền ra cho gia súc ăn,
xách túi gạo “cứu tế” bé xíu, ngồi bên ngôi nhà gỗ rách bươm tơi tả, anh
Huy thẳng thắn: “Tôi sợ nước sẽ dâng lên, lại phải vào hang đá một lần
nữa, lại đói khát và lại nghĩ rằng mình sẽ chết vì đói”.
Nỗi ám ảnh “trở về thời nguyên thuỷ”
Mưa lớn tiếp tục đổ nước, nước dâng cao, bà con sống trong thung
lũng rộng, cửa thoát nước chui qua một lèn đá bị ứ lại, nếu trời còn mưa
to hơn, có khi chính các hang đá tiền sử như ốc đảo cứu nhiều nghìn
“dân đen” kia cũng bị ngập nốt. Vì sao có sự dồn ứ lớn đến vậy ở khu vực
thung lũng mà từ nhiều đời nay bà con vẫn sinh sống khá an toàn như
thế? Phá rừng, việc con người ứng xử với môi trường mang tính tiêu cực
làm thay đổi dòng chảy của sông suối? Các lèn đá cửa hang bị bồi lấp do
xói mòn, thay đổi địa hình địa mạo? Chúng ta phải làm gì, để khi rừng
không còn giữ được nước mưa như thế, sông suối không thoát được như thế,
mà bà con vẫn sống, thay vì vào hang đá tiền sử với những “trải nghiệm”
kinh hoàng? Di dân hay làm nhà vượt lũ? Hay làm nhà trong lèn, hang đá
để “xây dựng cơ sở vật chất” cho việc thường niên vào hang chạy “giặc
nước”?
Khi Chánh văn phòng Bùi Anh Tuấn kể về 3 đứa trẻ được sinh ra trên
nóc nhà, rồi việc bà con mấy nghìn người trở về trong hoang tàn, thậm
chí giấy tờ tùy thân, sổ đỏ nhà đất cũng không còn, tôi chợt thấm thía
hơn về những sang chấn tinh thần sau thảm họa “bồng bế nhau lên họ ở
hang” tại Tân Hoá. Trò chuyện với chúng tôi, nhiều người ngơ ngác, hoảng
loạn, ám ảnh vì cảm giác cuộc sống quá bất an, trong phút chốc thiên
nhiên tàn độc đẩy con người vào đói khát tận cùng, màn trời chiếu đất
theo đúng nghĩa đen, giữa sự gào thét của lũ, sự ô nhiễm và tật bệnh
không tưởng tượng nổi. Hoá ra, những mất mát, tổn thương từ câu chuyện
kỳ dị của thế kỷ 21 (hơn 3.000 người bỏ nhà vào hang đá) kia lớn và đáng
xót xa chẳng kém những thiệt hại vật chất có thể trông thấy bằng mắt
thường!
Chị Trương Thị Dung - 28 tuổi, nhà ở thôn 1, xã Tân Hoá kể: “Nước
lên nhanh, chồng em đi vắng xa, em và 2 đứa con - thằng Thành 4 tuổi,
thằng Thắng 2 tuổi - được bà con cho đi nhờ thuyền chạy khỏi... nóc nhà.
Mẹ con em, mỗi người chỉ có duy nhất bộ quần áo đang mặc trên người,
tùy theo mưa gió, cứ ướt lại khô, khô lại ướt suốt 6 ngày đêm ở trên núi
đá. Đêm ngày em chỉ nằm ôm con, con khóc em cũng khóc, mấy ngày bị đói,
em không thấy đói vì thương con. Bây giờ trở về nhà, không còn cái gì,
kể cả mấy đồng tiền tích cóp trong hòm giữa nhà cũng bị trôi sạch. Sống
bằng gạo và mì tôm cứu trợ, mẹ con em cứ nấu cơm, lấy mì tôm “luộc”
lên, thả gia vị vào làm canh, sống qua ngày”.
Theo Lao Động