14/10/2010 12:16 (GMT+7)
Số lượt xem: 6210
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Từ sơ khai cho đến thời kì xã hội văn minh của nhân loại mặc dù tri thức của con người luôn phát triển rực rỡ, nhưng con người vẫn chưa thể giải đáp rõ ràng hai câu hỏi lớn: Vũ trụ là gì? Và con người từ đâu mà có? Hai câu hỏi nan giải này luôn là những thách thức, ám ảnh tâm thức con người.

Từ sơ khai cho đến thời kì xã hội văn minh của nhân loại mặc dù tri thức của con người luôn phát triển rực rỡ, nhưng con người vẫn chưa thể giải đáp rõ ràng hai câu hỏi lớn: Vũ trụ là gì? Và con người từ đâu mà có? Hai câu hỏi nan giải này luôn là những thách thức, ám ảnh tâm thức con người. Đã có biết bao nhà tôn giáo, tư tưởng, triết gia, đạo sĩ… mài mòn sách vở, dốc cạn tâm lực để mong mở được cánh cửa chân lý, tìm hiểu tường tận về vũ trụ và con người. Nhưng tất cả đều như những kẻ lữ hành loanh quanh mãi trong rừng rậm của tri kiến, vẫn không tìm được lối ra, chưa có những lời giải đáp toàn hảo nhất.

Đức Phật, bậc Vô thượng sĩ, nhà tư tưởng uyên thâm vĩ đại, sau khi chứng ngộ dưới cội Bồ-đề đã như thật tri kiến rằng:

“Cái này có thì cái kia có

Cái này không thì cái kia không.

Cái này sanh thì cái kia sanh

Cái này diệt thì cái kia diệt.”

(Mjjhimani Nikaya III 63)

Điều đó có nghĩa là, sự kiện chân thực của vạn pháp về vũ trụ và con người đều tương quan tương duyên với nhau trong mối quan hệ bất khả phân ly, trong pháp giới trùng trùng duyên khởi, không một sự vật nào đứng riêng lẻ mà có thể tồn tại được.

Sự kiện giác ngộ này của đức Phật là một khám phá vĩ đại về những nguyên nhân trói buộc chúng sanh vào con đường sanh tử luân hồi và những phương pháp để diệt trừ những khổ đau mà chúng sanh phải gánh chịu. Trong suốt 49 ngày đêm ngồi dưới cội Bồ-đề, đức Thế Tôn luôn tư duy về vấn đề sanh, lão, bệnh, tử của thân phận con người, những câu hỏi mà trước kia Ngài đã từng cưu mang như là một tiền đề cho sự tu tập. Đoạn văn sau đây diễn tả sự suy tư của đức Thế Tôn: Các Tỳ-kheo! Xưa kia, khi ta còn là Bồ-tát, chưa thành Chánh đẳng giác, ta tự nghĩ: cõi đời này thật do những nỗi lo khổ ràng buộc, sinh, già, chết để rồi lại sinh ra và vẫn chưa thoát ly cái khổ đau của già chết thì làm sao biết được cái khổ của già chết để thoát ly? Lúc đó ta tự hỏi: do đâu có già chết? do đâu có già chết?... Bấy giờ nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu biết đích thực như vầy: do có sinh mà có già, chết; do sinh làm duyên mà có già, chết. Lúc đó ta lại nghĩ do đâu có sinh, có hữu, có ái, có thọ…

Bằng phương pháp quán lưu chuyển và hoàn diệt về Thập nhị nhân duyên, đức Thế Tôn đã chứng đạt trí tuệ sáng suốt, đoạn trừ tất cả mọi sự chướng ngại, thoát ly sanh tử khổ đau và đạt được Nhất thiết chủng trí. Đề cập đến vấn đề: Vũ trụ là gì, nó là vô biên hay hữu biên? Con người từ đâu mà có?… là một trong những vấn đề đức Thế Tôn không bao giờ trực tiếp đề cập đến; nhưng bàng bạc trong Tam tạng kinh điển chúng ta cũng tìm được những giải đáp liên quan đến vấn đề này. Vậy thái độ của đức Phật về vũ trụ và nhân sinh quan Phật giáo như thế nào?.

Phật giáo không coi trọng nguyên lý, nguyên nhân hay căn nguyên đệ nhất như ta thường thấy trong các hệ thống triết học khác, không thừa nhận có tạo vật chủ… Theo Phật giáo, vũ trụ không phải là qui tâm độc nhất, đó là trường cộng sinh của vạn hữu. Phật giáo cho rằng: mọi vật được tạo thành có ít nhất là hai nguyên nhân, những sáng hóa hay biến thành của các nguyên nhân đi trước nối tiếp trong liên tục thời gian từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.

Sở dĩ các học phái tin có một sự khởi đầu là do giới hạn của tri thức, nên thấy vạn vật đều có khởi điểm. Nếu có bắt đầu thì phải có kết thúc và nếu có kết thúc thì vạn vật không thể tồn tại mãi. Nguyên nhân thứ hai là do những nhận thức sai lầm về vấn đề Có và Không. Với con mắt trần nông cạn, khi chúng ta thấy một khoảng trống thì gọi là không, thấy một vật có hình dáng, màu sắc, trọng lượng…thì gọi là có. Cái “không” có trước cái “có”. Từ không mà thành có, tất nhiên phải có một cái khác để tạo ra “có”. Do suy luận như vậy nên tạo ra Thần chủ.

Mọi sự vật “có” và “không” đều nằm trong quy luật tương đối, tức nó “có” và có trong sự không tồn tại vĩnh viễn, mà có để rồi biến đổi, suy hoại trở về “không” và “không” lại là một hình thái cho sự bắt đầu “có” của sự vật mới. Kinh Đại Bát Niết Bàn ghi: “Tùy theo nhân duyên hiện ra như là có sinh, cho nên tạm gọi là Có. Bởi không có tự tính, nên gọi là Không.” Cái vòng tròn khép kín ấy chính là thực tại nhân sinh khổ ải, khổ vì thực tại ấy luôn luôn biến đổi không ngừng, nay còn mai mất. Sự đời sum họp rồi lại chia phôi, khổ não là lòng tham dục, khát ái của chúng sanh bao giờ cũng muốn trở thành như thế này hoặc như thế kia, muốn còn mãi, sợ mất mát, cái bản ngã cố nắm lấy (ngã và ngã sở) sự vật chính là nguyên nhân tạo ra động lực cho sự vận chuyển của thế giới và nhân sinh quan. Đức Phật, đấng Giác ngộ đã tự mình chứng đạt chân lý tối hậu. Ngài tri kiến sự vật vạn hữu qua Tam minh và Lục thông. Chính vì thế, Ngài xem các vấn đề giải thoát khổ đau là mục tiêu tối hậu mà một vị tu sĩ Phật giáo cần phải hướng đến. Một câu chuyện thời danh được đề cập đến trong kinh Cù La. Màlunkyaputta đặt ra 10 câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn, xung quanh vấn đề có và không, thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên… (thế giới thường hay vô thường? Như Lai có tồn tại sau khi chết hay không? v.v…). Đức Thế Tôn đã im lặng không trả lời. Ngài kể cho Malunkyaputta nghe câu chuyện một người bị mũi tên độc. Vấn đề cấp thiết là phải rút mũi tên ra và chữa trị vết thương ngay chứ không phải là vấn đề tìm cho ra chất liệu đã làm nên mũi tên, người nào bắn mũi tên, mũi tên được bắn tới từ đâu..? Cũng thế, vấn đề cấp thiết của con người là nhổ mũi tên “khổ đau” chứ không phải đi tìm những câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực. Chính vì thế, đức Thế Tôn không thích huyền đàm viễn vông, vô ích mà phải trấn tĩnh cho tâm thanh tịnh để mà giác thức. Kinh Kim Cương ghi: “Hỡi các Tỳ Kheo! Các thầy đừng nên để tâm trí vào những tư tưởng sau đây: Thế giới là hữu hạn, thế giới là vô cùng. Điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là ta dạy các thầy về sự khổ, nguồn gốc sự khổ, đạo diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Những điều đó có ích, vì chắc chắn sẽ đưa các thầy đến cứu cánh của giải thoát vậy” (tr. 188-189). Gốc khổ đau nơi nhân sinh trần tục này mà còn chưa hiểu thì nói gì tới các lẽ Hình nhi thượng, hạ cao xa liệu có ích gì đâu cho người tu đạo và học đạo. Hiện tại con người đang đắm say với thiên kiến chủ quan, cố chấp với lý này lẽ khác, khiến mấy điều chân và thực gần gũi nhất còn chưa nhận ra được, thì vội luận tới các lẽ hư không mà làm gì!

Thái độ từ chối đàm luận về các vấn đề siêu hình của đức Phật, không phải vì Ngài không biết mà vì Ngài không muốn tham dự vào các việc tranh luận, khẩu khí mà các Bà-la-môn đương thời thường làm, các giáo phái gặp nhau là họ tranh luận, mỗi người mỗi kiến giải và tất nhiên ai cũng muốn thủ chấp kiến giải của mình là hơn hết. Đức Phật cho rằng: chân lý tự nó sáng tỏ, không cần phải có người gọt giũa, nếu cứ tranh cãi thì tự mê để đi đến làm hoen ố cả Đạo lẫn Giáo. Một lần ở Kosambi đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo: “Những gì Như Lai biết ví như rừng lá Simsapa, còn những gì mà Như Lai giảng dạy thì ít như nắm lá trong tay, nhưng đây là những phương thức trừ khổ”. Tất cả những gì đức Thế Tôn nói chỉ nhắm đến giải thoát khổ đau và giác ngộ chân lý, đấy là tính chất thực tiễn, thực tế, rất thiết thực trong hiện tại khổ đau của con người.

Mặc dù đức Thế Tôn không tham dự vào các vấn đề siêu hình, nhưng thế giới hiện tượng do duyên mà sanh, nên nó vô ngã, nó rỗng không: Con người chỉ là tập hợp của năm uẩn nên nó cũng vô ngã và rỗng không. Con người và thế giới cùng hiện hữu mà không thể tách rời nhau như trong kinh Giới Phân Biệt đức Phật dạy: “Sắc uẩn gồm có nội sắc và ngoại sắc, nội sắc là cơ thể vật lý của mỗi cá nhân, ngoại sắc là thế giới vật lý”. Điều này có nghĩa là vũ trụ tự nó là một phần của cơ thể con người. Chính vì vậy, đức Phật giảng dạy về duyên khởi các pháp (vũ trụ và nhân sinh quan) như một sự phân tích thật tướng của các pháp là vô ngã, để hàng đệ tử không tham đắm vào sắc pháp, không lầm chấp ngã và ngã sở. Đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo! Giả như vào mùa thu, khi trời mưa xuống các hạt mưa lớn, bong bóng nổi lên trên mặt nước rồi tan đi và một người sáng mắt sẽ nhìn thấy bong bóng nước ấy, quán sát nó, nhìn tận bản chất nó, người ấy sẽ thấy nó rỗng không, sẽ thấy nó không có ngã tính. Này các Tỳ-kheo! Làm sao có ngã tính. Này các Tỳ-kheo! Làm sao lại có thể có ngã tính trong cái bọt nước nổi trên mặt nước ấy!”. Chính vì phân tích sự tập họp các pháp, sự hình thành vũ trụ, để hàng đệ tử thấy rõ sự thật ảo ảnh của các pháp mà đoạn trừ các ái để tu tập. Về sau, các Luận sư, chư Tổ mới giải thích những điều Phật dạy liên quan đến vũ trụ và nhân sinh quan Phật giáo.

VŨ TRỤ QUAN:

Theo tuệ giác của đức Phật thì vũ trụ vạn hữu đã hình thành và biến chuyển là do cộng sinh, cộng hữu theo công thức:

“Cái này có nên cái kia có

Cái này không nên cái kia không.

Cái này sanh nên cái kia sanh

Cái này diệt nên cái kia diệt.”

Đây chính là nguyên lý duyên khởi được thiết lập để giải thích vạn hữu, hiện tượng giới. Duyên khởi luận trong Phật giáo có nhiều, nhưng những thuyết này không trái ngược nhau.

Nghiệp cảm duyên khởi:

Đây là chủ trương của Tiểu thừa Nguyên thủy Phật giáo. Tư tưởng này được rút ra từ trong Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên.

Theo trật tự trong Tứ diệu đế thì khổ đế đứng đầu tiên, đó là tên gọi chung cho mọi cái có (quả) và tất cả đều chịu sự khổ đau, cội nguồn của các sự khổ đau ấy là do các yếu tố nội tại: sắc, thọ, tưởng, hành, thức (chánh báo) và các hoàn cảnh xung quanh (y báo) nơi thời quá khứ (nhân). Đó chính là một quá trình tồn tại của khổ đau do nghiệp lực mà chiêu cảm.

Phần căn băn của khổ: sanh, lão, bệnh, tử. Con người sanh ra đã biết khóc chào đời, mở màn cho một kiếp sống khổ đau. Cho đến khi già yếu bệnh tật hành hạ, cơ thể mỏi mệt, lực bất tòng tâm và cuối cùng là cái chết, sự đau đớn sợ sệt, tiếc nuối làm cho tâm thức bất an. Trên cái khổ sanh tử mà con người không thể làm chủ được, còn nhiều cái khổ nữa như do tác động ngoại cảnh thời tiết nóng lạnh, bão lụt, chiến tranh… chồng chất, hoành hành đến cuộc sống của con người nên gọi là Khổ khổ. Có hình tất có hoại, khế kinh chép “Phàm vật gì có hình tướng đều phải bị hoại diệt”. Chính vì vậy, con người sống trong sự chi phối của vô thường, vô ngã, dời đổi, hợp tan mà không thỏa mãn được mong muốn theo chấp ngã gọi là Hoại khổ. Suốt cuộc đời phải chịu đựng sự khổ chồng chất (khổ khổ), sự chi phối của luật vô thường (hoại khổ) nên về phương diện vật chất thì bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, phá hoại; còn về phương diện tinh thần thì không thể tự chủ, yên ổn, tự do, tâm hồn bị các dục vọng lôi kéo, hành hạ. Đó gọi là Hành khổ. Tất cả những nổi khổ ấy là kết quả tích lũy của cái nghiệp luân hồi.

Hiện tại khổ đau của cuộc sống không phải do một thế lực nào đem lại, gây ra cho con người mà chính là do con người tạo ra. Và vì đâu sanh ra những nổi khổ ấy? câu hỏi này chính là nội dung của Tập đế. Tập là sự chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn. Đức Phật dạy: “Cội gốc của sanh tử luân hồi do các phiền não mê lầm và những dục vọng xấu xa, những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm chúng ta”. Các phiền não sai lầm, các dục vọng xấu xa ấy chứa nhóm, tích tụ là nguyên nhân cho cái tồn tại kéo dài không ngừng trong vòng quay vĩnh cửu. chính đấy là sự sa lầy làm ngừng đọng ý thức tiến hóa đến giải thoát. Đức Phật dạy: “Không thể quan niệm được điểm khởi đầu của vòng luân hồi, không thể khám phá được khởi điểm nguyên thủy của chúng, bị cản trở trong màn vô minh và dính mắc trong ái dục, đang vội vã, hấp tấp, chạy đảo điên xuyên qua vòng sanh tử liên tục tiếp diễn.” (kinh Tạp A Hàm).

Đối ngược với trạng thái khổ đau của chúng sanh là tâm thức an lạc của kẻ đã hoàn toàn diệt hết mọi phiền não, dục vọng, mê mờ. Đó được gọi là Diệt đế. Trong kinh Nhân Quả, Phật dạy rằng: “Các ông phải biết, vì tập nhân phiền não mới có kết quả khổ sanh tử, vậy các ông phải dứt trừ phiền não tập nhân. Khi đã dứt trừ rồi, lại phải thường nắm chặt chỗ dứt trừ cho chắc chắn, không khi nào nới bỏ. Đến khi chứng được quả Niết-bàn, thì tất nhiên tập nhân phiền não phải diệt hết, mà quả khổ luân hồi cũng không còn”. Vì vậy, Diệt đế là giải thoát hết mọi hệ lụy khổ đau, bất luận nguyên nhân gần hay xa nào có thể chấm dứt khổ đau, để đưa mình ra khỏi dòng thác lũ sanh tử, chấm dứt vòng quay của tồn tại dục vọng, kiến tạo một cuộc sống chân hạnh phúc. Đây là trạng thái có đủ diệu dụng của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, là trạng thái thực chứng cái bản thể của vũ trụ.

Để đạt được trạng thái an lạc hành giả phải tu tập, phương pháp tu tập đưa đến cảnh giới an lạc ấy gọi là Đạo đế. Đó là con đường đưa đến sự giải thoát vĩnh viễn kiếp thân đau khổ bằng cách thường xuyên làm tăng các yếu tố hướng đến thanh lọc tâm thức, con đường đó được gọi là: Bát chánh đạo được bắt đầu bằng Chánh kiến và kết thúc bằng Chánh định, như vậy yếu tố tinh thần quyết định đầu tiên, ý thức đi trước hành động, thanh lọc ý thức là làm trong sạch hành động. Bát chánh đạo đã mở ra con đường Trung đạo, nó mang tính toàn diện và phổ cập. Do đó Bát chánh đạo vừa giải quyết được các vấn đề thuộc cá nhân lẫn cộng đồng xã hội. Chính vị vậy, lần chuyển bánh xe pháp đầu tiên được xem là một giải pháp hữu hiệu thực tế nhất để cải hóa con người, xây dựng một xã hội toàn thiện.

Như vậy hệ thống Tứ diệu đế phân cực thế giới quan thành hai lãnh vực: sự tồn tại trần thế và chấm dứt sự tồn tại đó. Vì chính chúng ta là vị kiến trúc sư xây dựng ngôi nhà số phận của chúng ta, chính tạo ra hay tiêu diệt lấy, thiêng đường hay địa ngục đều do nơi thân, khẩu, ý của ta. Những tư tưởng, lời nói, hành động là động lực tạo nghiệp, rồi từ nơi nghiệp đã tạo ra đó đưa ta lên hay xuống từ kiếp này sang kiếp khác mãi mãi trong vòng luân hồi, nghiệp quá khứ tạo điều kiện để tái sinh trong kiếp hiện tại, nghiệp hiện tại phối hợp với nghiệp quá khứ tạo điều kiện để tái sinh trong kiếp vị lai và tùy theo nghiệp thiện hay bất thiện đã tạo mà chúng sanh tái sinh vào cảnh giới tương ứng nghiệp. Đời sống được kiện toàn tính chất hữu hình là do hai loại ảnh hưởng của hành động: biệt nghiệp và cộng nghiệp. Biệt nghiệp tạo ra cá thể chúng sanh, cộng nghiệp tao ra vũ trụ vạn hữu, các mối quan hệ, ràng buộc chung quanh cá thể.

Nhìn nghiệp cảm duyên khởi dưới góc độ 12 nhân duyên thì đây là một vòng tròn sinh hóa khép kín bởi hoặc – nghiệp – khổ, trong ý nghĩa rằng: nó không có điểm khởi đầu, mà sự sinh hóa trần tục, dục vọng nối tiếp làm nhân quả cho nhau, trong 12 chi phần nhân duyên vô minh, ái, thủ được gọi là Hoặc. Trong khi đó Hành và Hữu thuộc về Nghiệp quả, các chi còn lại thuộc về Khổ quả. Vì do vô minh mê tối nên mới tạo nghiệp vọng động (hành, thức) mà có thân ngũ uẩn (danh, sắc) rồi 6 căn tiếp xúc với 6 trần (lục nhập) sanh ra cảm giác, cảm thọ (thọ), vì cảm thọ nên sanh lòng yêu ghét (ái) rồi ham muốn chấp giữ, tạo thành thói quen (thủ). Vì đã nhân tham ái phải nhận lấy quả báo (hữu). Do có ái thủ hữu sẽ phải sanh vào kiếp vị lai (sinh) và tiếp tục nhận chịu những cảnh khổ, già và chết (lão, tử). Vòng lẩn quẩn 12 nhân duyên này lưu chuyển không ngừng là do năng lực tâm lý nó tồn tại, tiềm tàng vận hành. Cho nên gọi là nghiệp cảm duyên khởi.

A-lại-da Duyên khởi:

Nghiệp được chia thành 3 nhóm: thân, khẩu và ý nghiệp. Nếu khởi tâm tạo tác phải chịu trách nhiệm việc làm đó và phải chịu báo ứng, bởi ý lực là chủ động chính của thân và khẩu, nó được hàm chứa trong tâm thức vì đây là kho tàng tích chứa các hạt giống (chủng tử) để thực hiện hình thành thế giới, con người và các thế giới của hành động con người, sau khi biểu hiện, lại huân tập thành chủng tử. Chủng tử và hiện hành làm nhơn duyên cho nhau tạo ra vòng sanh diệt, liên tục. Đó được gọi là A-lại-da duyên khởi. A-lại-da là kho chứa các chủng tử nên còn gọi là Tàng thức.

Theo Duy Thức học, thức được chia thành 8 loại: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức và A-lại-da thức. Sau khi chết, thân xác này tan rã, nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt cái gì? Trong Duy Thức giải thích đó là A-lại-da thức, thức này nó hằng khởi và thường tại, nó có 2 công năng:

- Thâu nhiếp tất cả pháp

- Sanh khởi tất cả pháp.

Khi chúng ta gây thiện nghiệp hay ác nghiệp, thì chủng tử dồn chứa vào tạng thức, đến khi đủ nhân duyên thì những chủng tử ấy phát ra hiện hành. Bởi, A-lại-da thức bao gồm hết thảy chủng tử của các pháp, nên nó hiện ra hết năng lực vô hạn của vạn tượng. Khi căn thân của ta vừa phát sanh là nó bao hàm khách quan giới. Khách quan giới thiên sai vạn biệt là do trong chủ quan giới có ý thức tác động mà ra. Tóm lại, A-lại-da thức là cái căn bản của hiện tượng giới. Từ vô thỉ, A-lại-da đã bao trùm chủng tử, hiện tượng giới do chủng tử phát hiện, hiện tượng đã phát hiện lại kích thích làm nhân quả cho nhau hiển hiện ra vạn hữu và làm nền móng cho kiếp luân hồi.

Chân Như duyên khởi:

Chân Như là từ ngữ duy nhất có thể dùng để diễn tả thực tại cứu cánh vượt ngoài định danh, cũng gọi là Như Lai tạng. Như Lai tạng là Phật tính ẩn tàng trong bản tánh của phàm phu. Tức A-lại-da thức là phần nhiễm của chúng sanh, Như Lai tạng là phần tịnh của chúng sanh nên nó còn được gọi là Bạch Tịnh thức. Chính điều này đã nói lên tính chuyển hóa tâm thức của chúng sanh. Kinh Phạm Võng ghi: “Ta chỉ là vị Phật đã thành, có nhiệm vụ khai thị Phật tính cố hữu của các ngươi. Kẻ nào phát huy được Phật tính tức sẽ thành Phật”.

Chân Như hay Như Lai tạng là chỉ cho trạng thái chân thật của vạn hữu trong vũ trụ, cội nguồn của một đấng giác ngộ, căn cơ của giác ngộ. Khi tĩnh nó là tự thân của giác ngộ, nhưng khi động nó xuất hiện có thể trong hình thức loài người, chấp nhận một đường lối thế gian và sắc thái của đời sống. Trên thực tế, Chân Như hay Như Lai tạng là một và như nhau: chân lý cứu cánh. Trong Đại thừa Chung giáo thì Chân Như tùy duyên sanh ra muôn pháp “nhất thiết duy tâm tạo”, tức vạn hữu không phải ngoài tâm mà tồn tại. Chân Như tuy bị vô minh kích thích mà diêu động, nhưng trong động có tịnh, trong tịnh có động. Cũng như nước và sóng ở trong biển, đứng về phương diện nước thì tất cả sóng đều là nước, đứng về phương diện sóng mà nhìn thì tất cả nước đều là sóng. Tâm dụ cho biển, Chân Như dụ cho nước và vạn tượng giới dụ cho sóng. Chúng sanh vì vô minh che lấp nên chỉ thấy có vạn tượng giới. Bồ-tát và Phật vì đã trừ vô minh nên thấy vạn tượng là Chân Như, tịnh là Chân Như, động là vạn tượng, động và tịnh không rời nhau, không cùng là một nhưng cũng không phải khác nhau. Từ tịnh trở thành động là đi vào cửa sanh diệt và đó cũng là nguyên nhân sinh khởi ra vũ trụ vạn hữu.

Lục đại duyên khởi:

Đó là 6 công năng dung hòa lẫn nhau tạo ra muôn loài vạn vật hiện hữu ở thế gian này: địa, thủy, hỏa, phong, không và thức. Kinh Lăng Nghiêm ghi: “Khoảng không gian vô cùng tận do nguồn linh thức quá mạnh, làm rung động một lượt 6 yếu tố công năng và cùng quay chuyển biến hiện mà sanh ra phong đại (gió). Chính do những luồng gió thổi quyện các yếu tố tạo thành không khí, rồi đến địa đại, do sự cọ xát giữa hai áp lực gió và không khí tạo thành lửa (hỏa đại), hơi nóng bốc lên gặp khí lạnh ép xuống thành nước (thủy đại). Lửa bốc lên, nước dội xuống làm cho lắng đọng lại và nguội dần, chỗ nào bằng thẳng là đất, chỗ nào sụt xuống là bể, là hồ, là ao từ đó mọc ra cây cối…Tất cả những thứ đó gọi chung là khí thế gian.”

Trong lục đại thì địa, thủy, hỏa, phong, không thuộc về sắc pháp, thức thì thuộc về tâm pháp. Tâm và sắc đều cùng dung hòa nhau không ngăn ngại nhau và tùy duyên sanh khởi ra vũ trụ vạn hữu. Chúng ta hiện hữu, vũ trụ hiện hữu là do lục đại kết hợp mà ra, lục đại ly tán thì không còn. Còn, mất chẳng qua là một cuộc hoạt động của vũ trụ vạn hữu. Sự ly tán và kết hợp của lục đại chính là sự vận hành, hoạt động của vũ trụ vạn hữu. Chân Như là thực thể của Lục đại mà lý tánh của ta trừu tượng được, lìa hiện tượng thì không có thực thể, lìa vật thể thì không có lý được.

Thuyết lục đại duyên khởi là chủ trương của Chân Ngôn tông, lập cứ trên bộ kinh Hán tạng tương đương “Phân biệt lục giới kinh” (Trung A Hàm 42). Bộ kinh này đức Thế Tôn dạy cho một tu sĩ trẻ tuổi Phất-ca-la-sa-lợi tại một nhà của thợ làm đồ gốm trong đêm trú mưa, để khai ngộ vị tu sĩ trẻ tuổi này giác ngộ rằng: Ngã và Pháp đều là vô ngã để rời khỏi chấp thủ tướng, nguyên nhân sinh tử; từ đây sanh tâm từ bỏ và yểm ly, mong cầu liễu thoát khổ đau.

Pháp giới duyên khởi:

Đây là chủ thuyết của Hoa Nghiêm tông, thuyết này cho rằng: vũ trụ là biểu lộ Động của nguyên lý Tĩnh. Vạn hữu hỗ tương phụ thuộc, hỗ tương giao thiệp, không trở ngại lẫn nhau, cùng khởi và đồng thời có mặt; do đó tạo ra một bản đại hòa tấu vũ trụ của toàn thể điệu. Nếu thiếu một, vũ trụ sẽ không toàn vẹn, nếu không có cái tất cả thì cái một cũng không “một là tất cả, tất cả là một”. Khi toàn thể vũ trụ tiến tới một bản hòa âm toàn hảo thì nó được gọi: Nhất chân pháp giới, vũ trụ của cái một và cái thực. Trong vũ trụ lý tưởng đó, vạn hữu sẽ tồn tại trong hòa điệu toàn diện, mỗi hữu không chướng ngại hiện hữu và hoạt động của hữu khác.

Theo thuyết này, Pháp giới tròn đầy biểu hiện qua 4 mặt:

- Sự pháp giới: Thế giới của đời sống hiện thực.

- Lý pháp giới: Thế giới lý tưởng của định luật nguyên lý.

- Lý sự vô ngại pháp giới: Thế giới thể hiện lý trong sự, sự và lý cùng hòa điệu.

- Sự sự vô ngại pháp giới: Thế giới tương giao hòa điệu giữa các sự và các hiện thực.

Cái năng động chủ lực của Pháp giới duyên khởi là do vạn pháp, pháp này dung thông với pháp kia, cùng nhau làm duyên khởi, mỗi lớp mỗi lớp không cùng tột cho nên gọi là: pháp giới trùng trùng duyên khởi. Sở dĩ các pháp làm nhân, làm duyên hòa hợp nhau được là do 10 huyền môn dung thông vô ngại, 10 huyền môn ấy là:

Đồng thời cụ túc tương ưng môn

1- Quảng hiệp tự tại vô ngại môn

2- Nhất đa tương ưng bất đồng môn

3- Chư pháp tương tức tự tại môn

4- Ẩn mật hiển liễu câu thành môn

5- Vi tế tương dung an lập môn

6- Nhân đà la võng cảnh giới môn

7- Thật sự hiển pháp sinh giải môn

8- Thập thế cách pháp dị thành môn

9- Duy tâm hồi chuyển dị thành môn.

Về thuyết Pháp giới duyên khởi không chủ đích giải thích điểm khởi nguyên của vũ trụ, mà chỉ trình bày cái thực thể toàn diện sinh khởi hoạt động của vũ trụ mà thôi.

Như vậy, tìm đến căn nguyên của vũ trụ vạn hữu thì gồm có nhiều thuyết khác nhau như:

- Nghiệp cảm duyên khởi: được diễn tả như bánh xe sinh hóa mà nghiệp lực là nguyên nhân chính của hiện tượng giới.

- A-lại-da duyên khởi: là một bước đi sâu vào để giải thích căn nguyên của nghiệp lực. Căn nguyên ấy chính là A-lại-da, công năng A-lại-da lại là nơi cất giữ và phát hiện ra hiện hành của vũ trụ vạn hữu.

Chân Như duyên khởi: Chân Như lại là một nội hàm sâu kín trong A-lại-da, Chân Như hàm chứa trong tàng thức, tàng thức lại dung chứa vô minh làm cho Chân Như dao động mà phát sinh hiện hữu vũ trụ.

Lục đại duyên khởi và pháp giới duyên khởi: thuyết minh cái công năng tạo ra vũ trụ chứ không nhằm vào nguyên nhân như ba thuyết trên.

Tuy để nói về một chủ đề khởi nguyên của vũ trụ và nhân sinh quan, nhưng giáo lý Phật giáo có nhiều thuyết như vậy, có thực sự trái nghịch nhau không? Xin thưa: không!

Vì tôn chỉ của đức Phật là giải thoát sanh tử cho chúng sanh, mà chúng sanh thì căn cơ bất đồng nên không thể chỉ dùng một phương thức để giáo hóa. Như nền giáo dục cũng chia ra nhiều cấp bực, bước đầu sơ cơ học sinh được cộng trừ nhân chia trên những con số thực, đến cấp III kiến thức đòi hỏi không đơn thuần cộng trừ nhân chia mà đi đến căn thừa tích phân… nhưng chắc chắn một điều không phải không xác lập trên cơ sở cộng trừ nhân chia.

Cũng thế, trí tuệ không đồng nhau của các hạng đệ tử cần phải dụng đến kỹ năng nâng cấp để dễ tiếp thu. Cho dù gồm các thuyết có phần dị ngôn nhưng quy luật chung vẫn đồng nhất, đều cho ta một kết luận chính: vũ trụ vạn hữu do nhân duyên quả cấu tạo, giữa các hiện tượng có là do những mối dây liên hệ chằng chịt mật thuyết với nhau mà không bao giờ đứt quãng. Bởi vũ trụ là một “khối duy nhất” nó được bao gồm tinh thần và vật chất, vốn cùng một bản và cùng bất biến, đồng chịu chung vào công lệ: thành-trụ-hoại-không.

Vũ trụ và con người cứ như dòng sông chảy xiết ra biển, đó là đứng về phương diện động. Nhìn về phương diện tuyệt đối thì tất cả vạn vật không sinh cũng không diệt, cái bản thể tuyệt đối không thêm không bớt và đó là pháp nhĩ như thị và vấn đề mà Như Lai không muốn tham luận đến, vì ngôn ngữ chỉ làm mê mờ về Chân Như mà thôi.

NHÂN SINH QUAN:

“Không thể tìm ra một tạo vật, một Brahma hay một vị nào khác làm chủ vòng luân chuyển đời sốn;. chỉ có hiện tượng diễn tiến, tùy thuộc những điều kiện”.

(Thanh Tịnh Đạo Luận)

Thế ấy “hiện tượng diễn tiến tùy thuộc những điều kiện” là giải đáp những thắc mắc của con người về câu hỏi: con người do đâu mà có, có từ khi nào?

Con người do đâu mà có?

Cái “hiện tượng diễn tiến tùy thuộc những điều kiện” ấy được nói rõ trong Thập nhị nhân duyên. Đây là bài pháp giảng về tiến trình của hiện tượng sanh tử luân hồi, nguồn gốc đau khổ và chỉ nhằm mục đích giúp chúng sanh thoát khỏi các phiền não của đời sống.

- Vô minh: tức do không nhận định được chân lý về sự khổ, nguyên nhân của sự khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến sự diệt khổ. Cái không thấy, không nhận định được đó chính là nguyên nhân làm động lực thúc đẩy chuyển động bánh xe đời sống. Đức Phật dạy: “Vô minh là lớp ảo kiến mịt mù dày đặc, trong ấy chúng sanh quay quần, quanh lộn.” (Nipata)

Đến khi lớp vô minh bị phá vỡ thì vấn đề nhân quả cũng chấm dứt “người đã tiêu trừ ảo kiến và phá tan lớp tối tăm dày đặc sẽ không còn thênh thang đi mãi nữa. Đối với người ấy sẽ không còn vấn đề nhân quả nữa”.

- Hành: là hành động, là tác nghiệp. Nó phát sinh tùy thuộc vào vô minh. Tất cả những tư tưởng, lời nói, việc làm thiện và bất thiện đều nằm trong Hành. Những hành động tốt hay xấu trực tiếp phát nguồn từ vô minh, hay nói cách khác thì vô minh gián tiếp làm động cơ thúc đẩy để tạo nghiệp

- Thức tái sanh nối liền quá khứ với hiện tại là tùy thuộc nơi hành. Thức tái sanh phối hợp với tinh trùng của cha và minh châu của mẹ cấu thành bào thai chuẩn bị cho cuộc sống kế tiếp, trong cái thức ấy ngủ ngầm những cảm giác đã thọ, những đặc tính và những khuynh hướng riêng biệt trong dòng đời đã qua của một cá nhân.

- Danh-sắc phát sanh cùng một lúc với thức tái sanh. Hành và thức thuộc về 2 kiếp quá khứ và hiện tại của một chúng sanh. Trái lại thức và danh sắc cùng phát sanh trong một kiếp sống. Danh thuộc phần tâm, sắc thuộc phần nhục thể, hữu hình của một chúng sanh.

- Lục nhập được hình thành từ nơi danh sắc, đó là chi thứ 5 trong 12 chi phần, nói lục nhập là nói sự gặp gỡ giữa 6 căn và 6 trần, khi sự gặp nhau giữa căn và trần thì thức xuất hiện, như thế lục nhập tự nó bao hàm vô minh và khổ đau. Đức Phật dạy: “Vì có mắt và sắc nên nhãn thức phát sanh, xúc là giao điểm của ba yếu tố ấy. Vì có tai và âm thanh nên nhĩ thức phát sanh. Vì có mũi và hương nên tỷ thức phát sanh. Vì có lưỡi và vị nên thiệt thức phát sanh. Vì có thân và vật có thể sờ mó được nên thân thức phát sanh. Vì có tâm ý và đối tượng của tâm  pháp nên ý thức phát sanh.”

- Xúc là điểm giao thoa giữa ba yếu tố từ nơi lục nhập. Như vậy sự đụng chạm suông không phải là xúc, vì muốn có xúc thì phải đủ ba yếu tố: đối tượng, giác quan và thức.

- Thọ cảm giác thâu nhận lạc, bất lạc, bất khổ bất lạc. Chính thọ thâu nhận những quả lành dữ của những hành động trong hiện tại, ngoài tâm sở thọ không có một linh hồn hay một bản ngã nào hưởng quả lành hay quả dữ.

- Ái tùy thuộc nơi cảm thọ mà phát sanh. Cũng như vô minh, ái hay ái dục rất quan trọng, luyến ái, khao khát, bám víu. Trong kinh Chánh Tri Kiến, tôn giả Xá-lợi-phất bàn đến ba nhóm ái như sau:

“Này chư Hiền! Thế nào là sự bịnh khởi của khổ đau? Chính ái hướng đến một đời sống khác, đi cùng với hỷ lạc và tham, tìm kiếm hỷ lạc tại chỗ này chỗ kia, đó là dục ái, hữu ái và vô hữu ái. Này chư hiền! Đây gọi là nguồn gốc của khổ đau”. Khát ái các lạc thú có nghĩa là khát ái vị ngọt của sắc, thinh, hương, vị và xúc. Đây là dục lạc, trong đời sống hằng ngày, con người luôn sống với khát vọng hạnh phúc và lạc thú từ sáu trần. Chẳng may mọi vật, mọi lạc thú đều vô thường qua từng sát na và sự kiện này khiến con người sầu khổ và khiến dục vọng bốc cháy, dục vọng càng bốc cháy thì khổ đau càng nhiều. Điều này cho ta thấy, tham ái chính là căn gốc của khổ đau cho kiếp hiện tại và tương lai.

- Thủ là tìm cầu nắm lấy cái hay, cái tốt, cái ưa thích do nơi ái mà phát sanh. Sự khổ đau của cuộc đời đã khiến con người nắm giữ lòng ham muốn và nắm giữ đối tượng ham muốn, xem đấy là con đường tìm kiếm hạnh phúc. Do vậy, con người xem dục vọng và tư duy như là tự ngã của mình, thực ngã của mình. Nguyên nhân của thủ là luyến ái lầm lạc, ái như kẻ trộm đi mò trong đêm tối để trộm vật, thủ như kẻ trộm đang ôm giữ vật được lấy cắp.

- Hữu chi thứ 11 trong 12 nhân duyên, tùy thuộc nơi Thủ mà Hữu phát sanh, đó là sản phẩm từ sự tích tụ của Thủ, có nghĩa là đang trở thành, hành động tạo nghiệp và những cảnh giới của chúng sanh. Hữu gồm có: Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.

+ Dục hữu: thế giới mà chúng sanh tham đắm sắc, thinh, hương, vị và xúc.

+ Sắc hữu: cảnh giới mà chúng sanh tham đắm các sắc tế nhị, tham đắm sự hiện hữu và tồn tại.

+ Vô hữu sắc: cảnh giới mà chúng sanh nhàm chán hiện hữu, chúng sanh cõi này chỉ mong muốn không hiện hữu.

- Sanh tùy thuộc nơi hữu có mặt ngay nơi kiếp hiện tại. Một cách chính xác, sanh là sự phát sanh của những hiện tượng tâm-vật lý con người (một cuộc sống vừa chào đời).

- Lão tử là hậu quả hiển nhiên của sự sanh ra, là sự già yếu, bịnh hoạn, chết chóc của cuộc đời con người.

Quả phát sanh vì có nhân. Vậy nếu không có nhân tức không có quả, nếu nhân bị diệt tức quả cũng sẽ diệt. Trong 12 nhân duyên vô minh thuộc về hoặc và hành thuộc về nghiệp, Đó là nhân quá khứ, do nhân quá khứ ấy mà có năm quả khổ hiện tại: thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ. Do quả khổ hiện tại nói trên mà khởi ra hoặc là ái và thủ; ái, thủ lại tạo nghiệp là hữu, do đây làm nhân khổ cho đời sau là sanh và lão tử. Tiến trình Nhân và Quả liên tục diễn tiến theo vòng tròn Hoặc-Nghiệp-Khổ vô cùng tận, không thể nhận ra được khởi điểm của tiến trình ấy, vì ta không thể quan niệm được điểm chấm dứt của dòng thời gian vô hạn, dòng sanh tử của ta luôn bị màn vô minh bao phủ. Tuy nhiên, giờ phút nào trí tuệ thay thế vô minh và chứng nghiệm được bản chất của Niết-bàn, khi ấy tiến trình sanh tử sẽ chấm dứt. Quá trình vận hành của 12 nhân duyên giải đáp câu hỏi mà nhân loại luôn tìm kiếm, tranh luận, lập luận… về khởi nguyên con người do đâu mà có? Bây giờ chúng ta tìm hiểu về cấu tạo sắc thân của con người là gì?

Sắc thân con người:

Giáo lý Ngũ uẩn cho ta hiểu rõ về sắc thân con người được cấu tạo như thế nào? Ở tại vườn Lộc Dã, ngay sau ngày thứ nhất giảng dạy về giáo lý Tứ Thánh đế, đức Phật đã dạy giáo lý Ngũ uẩn. Đức Phật dạy: cái được gọi là chúng sanh gồm 5 uẩn, ngoài 5 uẩn ấy không có chúng sanh. Nếu bỏ năm uẩn ra sẽ không còn gì tồn tại, không có linh hồn hay bản ngã trong một uẩn riêng lẻ, không có linh hồn trong 5 uẩn hợp lại, mà linh hồn cũng không có ngoài 5 uẩn ấy. Vậy 5 uẩn ấy là gì?

Năm uẩn đó chính là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.

Uẩn nghĩa là sự tụ tập, tích tập theo từng loại, cùng loại, cùng với tính chất giống nhau, nhóm lại một nhóm gọi là uẩn. Tức là năm nhóm: nhóm sắc, nhóm thọ, nhóm tưởng, nhóm hành và nhóm thức kết hợp thành một giả tướng, giả tướng ấy được gọi là con người.

Ngũ uẩn cũng gọi là sanh y, tức là cái căn cứ cho một đời sống khác, là chỗ y cứ cho một cuộc đời, cho một sự sống nên gọi là sanh y.

Trong kinh Tạp A Hàm VI cũng nói: “Ư sắc nhiễm trước triền miên danh viết chúng sanh; ư thọ, tưởng, hành, thức nhiễm trước triền miên danh viết chúng sanh.” Nghĩa là đối với sắc nhiễm trước triền miên gọi là chúng sanh, đối với thọ, tưởng, hành, thức nhiễm trước triền miên gọi là chúng sanh, ai không nhiễm trước thì người đó là Phật.

Kinh Thế Bổn Duyên nói: “Chúng sanh là một danh từ chung gọi tất cả các loại sanh chung trong thế gian này, không phân biệt già, trẻ, nam, nữ… gì cả”.

Trong Câu Xá Quang Kí, quyển I lại nói: “Thọ chúng đa sanh tử cố viết chúng sanh.” Tức là thọ rất nhiều sanh tử gọi là chúng sanh. Trong bộ Đại Thừa Đồng Tánh nói rằng: “Do lấy năm uẩn làm duyên giả hợp sinh ra nên gọi chúng sanh”.

Như vậy, chúng ta hiểu chúng sanh ở đây cũng chính là chữ Ngã. Cái Ngã được tích tập, nhóm họp của năm nhóm:

-Sắc (thân thể)

-Thọ (cảm giác)

-Tưởng (tri giác)

-Hành (động lực và cảm xúc)

-Thức (vận động của ý thức)

Sự nhóm họp tạo thành một cá thể người và sự nhóm họp ấy không có một bản ngã riêng biệt, nó chỉ là giả tướng, làm căn cứ cho cuộc sống. Nhưng vì vô minh che lấp mà lầm chấp cho rằng đó là ngã - một cái Tôi riêng biệt, rồi khư khư theo đó mà tham ái, chấp thủ, tạo nghiệp, cứ thế mà xoay vần, lặn hụp mãi trong biển sanh tử luân hồi.

- Sắc uẩn được hiểu là cơ thể vật lý, là thể chất con người. Sắc uẩn gồm tứ đại năng tạo và tứ đại sở tạo. Tứ đại năng tạo: đất, nước, gió, lửa; tất cả sự vật, tất cả vật chất đều do tứ đại này mà có, nó như cái gốc từ đó sanh ra tất cả sự vật nên gọi là năng tạo. Tứ đại sở tạo: năm căn, năm trần được tạo ra bởi đất, nước, lửa, gió và đồng thời cũng do tính chất của tứ đại: cố, dịch, nhiệt, động tạo ra. Vì năm căn, năm trần này mà tứ đại được gọi: sở tạo.

Năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân; những hình dáng bên ngoài, nó như những cửa sổ để thu nhận năm trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc được gọi là phù trần căn. Chính phần thần kinh ở não bộ điều khiển tất cả cảm giác của con người, khi các sự vật bên ngoài tác động vào, qua phù trần căn được truyền dẫn đến trung tâm và tại đây ứng đối tạo thành cảm giác. Căn này được cấu tạo bởi những chất liệu rất tinh tế vi diệu nên gọi: tịnh sắc căn.

- Thọ uẩn: thọ là lãnh nạp, nạp thọ, nhận lãnh. Cái gì đến với ta, ta nhận lãnh gọi là thọ, nó thuộc về phần cảm giác. Thọ gồm có: lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Thọ sẽ đưa đến ái và thủ, thọ này mà chấp thủ thì sẽ thành ra ái và trước. Chấp nhận cái này như thế này, cái kia như thế kia… chấp nhận thế gian này là thường hay vô thường, thế gian là vô biên hay hữu biên… cho nên trong kinh Phạm Võng và Trường A Hàm, đức Phật nói có 62 kiến chấp của ngoại đạo đều do thọ nhận mà ra cả.

- Tưởng uẩn: Tưởng là tưởng tượng, suy tưởng, là phần tri giác của con người; sự tri giác sai lầm vào cá nhân hoặc cá tính dẫn đến kiến chấp có một cái Ngã – Ngã sở đó là ảo tưởng. Trong kinh Phật dạy: “Ta có mặt trong quá khứ, đó là một ảo tưởng; ta không có mặt trong quá khứ đó là một ảo tưởng. Ta có sắc trong quá khứ, đó là một ảo tưởng; ta có mặt trong hiện tại đó là một ảo tưởng. Ta có sắc trong hiện tại đó là một ảo tưởng, trong vị lai, trong quá khứ như thế là một ảo tưởng”.

Có tưởng là có vướng mắc, là có chướng ngại, tức là trí tuệ bị hạn, đang bị ràng buộc, đang bị diễn biến sanh diệt, tưởng thuộc về kiến, kiến thuộc về chấp thường chấp đoạn, chấp có chấp không, thế giới hữu biên hay vô biên… Chính những ý tưởng suy đoán này dẫn đến ý thức phân biệt, so sánh và đặt tên cho sự vật, tạo ra thế giới muôn hình vạn trạng sai biệt. Vốn dĩ pháp giới bình đẳng nhất như trong mối tương quan chặt chẽ của pháp giới “Trùng trùng duyên khởi”.

- Hành uẩn: nghĩa là sanh diệt, là thiên lưu, tạo tác. Nó thuộc phần cảm xúc và động lực để đưa đến sự vận động của ý thức. Trong kinh Phật dạy: “Chư hành vô thường, chư pháp vô ngã”. Hành là nói về các pháp, các hiện tượng được kết hợp bởi nhiều yếu tố, nó vô tự tính, luôn luôn dời đổi nên gọi là hành. Như vậy, chữ hành bao gồm cả sắc và tâm. Sắc cũng hành, thọ cũng hành, tưởng và thức cũng hành. Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều có tính chất được kết hợp bởi nhiếu yếu tố và luôn luôn thay đổi. Trong 100 pháp (ngoại trừ sắc, thọ, tưởng, thức vì chúng đã có tên riêng) tấc cả các pháp đều được gọi là hành uẩn, những pháp đó được phân làm hai: tâm tương ưng hành và tâm bất tương ưng hành.

Tâm tương ưng hành gồm có 51 món tâm sở: ngũ biến hành, ngũ biệt cảnh, 11 món thiện, 20 món tùy phiền não, 6 căn bản phiền não, 4 bất định; 51 món tâm sở này hoạt động cùng tâm vương nên gọi là tâm tương ưng.

Tâm bất tương ưng: gồm có 24 món tâm sở, nó không cần tâm vương vẫn hoạt động được. Tuy nhiên, chúng cũng không tách ra khỏi tâm vương mà có được.

Trong hành uẩn suốt quá trình hành động có cố ý đều là tác động của tư tâm sở. Đức Phật dạy có cố ý làm (tư tâm sở hiện hữu trong hành động gồm ba giai đoạn: suy nghĩ tính toán, quyết định và hành động) mới thành nghiệp, mới đưa đến quả, như vậy mới gọi là nghiệp.

- Thức uẩn: sự vận động của ý thức, sự nhận thức, biện biệt một cách rõ ràng, có tính trực giác, hiện lượng. Nhận thức cái này, cái nọ… rồi phản ảnh lại, phản ánh cảnh vật ở trong tâm; như khi sắc tác động vào mắt, mắt biết đó là sắc; tiếng tác động vào tai, tai biết đó là tiếng… biết sắc, biết tiếng, biết hương, biết vị… đó là thức giác, là liễu biệt nhưng không hề có hiện lượng so sánh, hay dở, tốt xấu.

Nói tóm lại, ngũ uẩn gồm hai phần thể chất (sắc) và tâm hồn (thọ, tưởng, hành, thức) hai phần này tương đương với danh và sắc trong Thập nhị nhân duyên; khi phân tách thì gọi ngũ uẩn, gom lại thì gọi là danh sắc, hay là sắc tâm. Trong con người chúng ta không có cái gì ngoài năm uẩn, năm uẩn kết hợp tạo nên cá thể người, nếu chúng ta không đem tâm so sánh phân biệt năm uẩn thì vạn pháp đều bình đẳng, tất cả pháp như nhau, nó trùng trùng duyên khởi tạo nên một sự tương quan chặt chẽ, cái này liên hệ với cái kia, chúng nằm trong nhau và không tách biệt nhau. Thế nhưng tưởng nó chia ra, tạo ra, sắp đặt tạo nên cái danh của các pháp, vì vậy chúng ta thấy giữa người có học thức, người ít học thức với một em bé sơ sinh có cái khác nhau. Vì cái tưởng, trình độ của cái tưởng, tác dụng của cái tưởng mà tạo thành rồi dẫn đến kiến chấp vào ngã và ngã sở. Trong sự tin tưởng rằng tôi là cái này hay tôi có cái đó làm cho vạn pháp có ranh giới, có giới hạn, có nghiệp, lại chính là nơi nghiệp vận hành bánh xe luân hồi sanh tử khổ đau.

Trên đây đã nói rõ về ngũ uẩn, sự phân tích về sắc thân nhân sanh, đó chỉ là một tích tập, nhóm họp tạo thành nên không có một cái Ngã thể riêng biệt để chấp thủ. Tuy nhiên, sự đau khổ của con người không do sự tích tập, nhóm họp ấy mà chính là do lòng khát ái năm uẩn; đức Phật dạy rằng: năm uẩn là gánh nặng.

Kẻ gánh nặng là người

Cầm lấy gánh nặng lên

Chính là khổ ở đời.

Còn đặt gánh nặng xuống

Tức là lạc ở đời.

Đặt gánh nặng xuống rồi

Không mang thêm gánh khác.

Nếu nhổ khát ái lên

Tận cùng đến gốc rễ

Không còn đói và khát

Đã giải thoát tịnh lạc.

(Tương Ưng Bộ Kinh III. Tr.39).

Như vậy, khởi nguyên của sự sống con người nó không có sự bắt đầu và sự chấm dứt, mà là vòng tiếp nối của Hoặc-Nghiệp-Khổ; vòng tròn 12 Nhân duyên được nối tiếp của nhân quá khứ, quả hiện tại, nhân hiện tại quả vị lai. Sự vận hành này được vận hành trên giả tướng của bản ngã.

Giá Trị Của Con Người:

Trong kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Con người là hơn cả, vì có thể thực hiện mọi sự tốt đẹp ở đời”.

Kinh Ưu Bà Tắc dạy: “Hoàn cảnh con người không quá khổ như địa ngục, không quá vui như thiên đường và không ngu si như các loài sinh vật”.

Và lời tuyên ngôn của đức Thế Tôn khẳng định rằng: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh”. “Ta là Phật đã thành và các ông là Phật sẽ thành”. Như vậy, giá trị con người trong đạo Phật luôn được đề cao và được nhìn nhận là một chủng loại có đặc tính vạn năng. Tư tưởng, ý chí và hành động của con người quyết định hết thảy. Con người tốt hay xấu, giàu hay nghèo, ngu tối hay thông minh và xã hội có mở mang hoặc thoái hóa, nguyên nhân chính vẫn là con người, con người tự tạo nên mình, cũng chính con người tự tiêu diệt lấy mình, bên trong con người có một đống rác tật xấu và một kho tàng đức hạnh. Ta có thể tìm thấy trong con người bản chất cầm thú, sâu bọ, người, siêu nhân, trời, phạm thiên… Những khuynh hướng tội lỗi và những tâm tánh thánh thiện đều có ngủ ngầm trong đó. Con người có thể là một phước lành hay một tội lỗi cho kẻ khác, vì chính con người tự mình là một thế giới, nếu con người biết cách điều khiển cuộc sống thì mọi việc sẽ tốt đẹp, ngược lại thì cuộc sống, người giăng bẫy chính là con người và người mắc bẫy cũng chính là con người. Lòng khát ái của con người đối với vật chất như tiền tài, sắc đẹp, ngủ nghỉ, ăn uống cùng với những ham muốn thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần như danh lợi, chức quyền… làm cho con người ích kỉ, tham lam. Con người bị trói buộc vào dục vọng như con ngựa bị ràng buộc vào cổ xe, cứ phải kéo mãi không bao giờ được yên nghỉ. Tuy nhiên, con người vốn hữu có Phật tánh và Phật tánh nơi con người quyết định gầy dựng hạnh phúc của con người mà không cần van xin ở một đấng thần linh nào khác; cái vốn trí tuệ, từ bi, bình đẳng, giải thoát và tự chủ nơi con người sẽ làm tịnh hóa nỗi khổ đau, mê tối trong cuộc sống và đưa con người trở về với bản tánh thanh tịnh, kiến tạo thế giới Tịnh độ ngay giữa nhân gian này.

Phật giáo phủ nhận tạo hóa và các thuyết về nguyên nhân đầu tiên; như vậy, theo quan điểm của Phật giáo chủ trương không có định mạng, vận mạng, hay tiền định bất di bất dịch đã được sắp xếp an bài, kiểm soát tương lai của con người ngoài ý muốn của họ và không tùy thuộc hành động của họ. Nếu tin như vậy, tự do ý chí đã trở nên tuyệt đối và là một chuyện khôi hài và đời sống trở thành thuần túy máy móc và thụ động.

Con người có đủ quyền năng lựa chọn giữa điều phải và lẽ quấy, việc tốt và việc xấu. Con người có thể là bạn lành hoặc là kẻ thù địch của chính mình và cho người khác. Tất cả đều do tâm và tiến trình phát triển của tâm. Mặc dù không sẵn có mục tiêu đặc biệt cho kiếp nhân sinh, nhưng con người vẫn được tự do tạo cho mình một lý tưởng của cuộc sống. Vậy mục tiêu của cuộc sống là gì?

Theo Ấn Độ giáo mục tiêu của đời sống con người là: đồng nhất thể với Brahma hoặc “hườn nguyên” nhập trở vào tinh chất thần linh, cái đại hồn, mà từ đó linh hồn của con người được tách rời ra.

Theo Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo thì mục tiêu của đời sống là làm vẻ vang Thượng đế mãi mãi đời đời.

Mục tiêu của Phật giáo chính là trạng thái toàn giác (Sambodhi) tức là thấu triệt được thực tướng của chính mình, tự hiểu biết chính mình đúng như thật của các pháp, đó là tịnh hóa tâm thức khỏi những dục vọng thấp hèn, sự thấy rõ các pháp do duyên sanh và cũng do duyên diệt. Sự giác ngộ cao siêu này có thể thành đạt bằng cách nghiêm trì giới luật, trau dồi tâm tuệ giác và khai triển trí tuệ hoàn hảo mà không cầu khẩn một đấng tạo hóa nào cả.

Phật giáo tin có hiện tại, rồi căn cứ trên hiện tại mà suy diễn rằng có quá khứ và tương lai. Cũng như ánh sáng đèn điện là sự biểu hiện ra bên ngoài của luồng điện cực vô hình, cũng như thế ấy, con người chỉ là sự biểu hiện ra ngoài của năng lực vô hình của nghiệp. Bóng đèn điện có thể bể và ánh sáng có thể tắt, nhưng luồng điện vẫn còn và ánh sáng có thể trở lại khi gắn vào đó một cái bóng khác. Cũng thế ấy, luồng nghiệp lực vẫn trôi chảy như thường, không bị tan vỡ của cơ thể vật chất làm xáo trộn. Tâm thức của con người lâm chung trong hiện tại chấm dứt và khi chấm dứt, tạo duyên cho một tâm thức mới phát sanh trong kiếp sống kế. Nghiệp quá khứ tạo điều kiện cho kiếp sống tương lai.

Như vậy, con người sanh ra từ bào thai hành động (nghiệp), đây là nguồn chủ động của sự sống, cha mẹ chỉ cung ứng vào phần vật chất. Vào lúc thọ thai chính do nghiệp tạo duyên để thức đầu tiên làm nguồn sống vào thai bào, nghiệp lực vô hình này phát sanh từ kiếp sống quá khứ tạo thành những hiện tượng tâm linh và hiện tượng sinh lực trong hiện tượng vật chất sẵn có, hội đủ ba yếu tố cấu thành con người. Ấy chính là vòng tròn Hoặc-Nghiệp-Khổ của luân hồi sanh tử mà không tìm ra đầu mối.

Như vậy đặc tính chung của hiện tượng giới (nhân sinh quan và vũ trụ quan) đều do các duyên tụ hội theo luật nhân duyên quả mà không có một bản thể riêng biệt tồn tại vĩnh cửu, nên vũ trụ và nhân sinh đều có chung tánh chất: vô thường, vô ngã. Người học Phật chúng ta nhìn nhận sự vật đúng như bản chất của chúng thì mới mong đoạn trừ khổ đau, giải thoát an vui trong hiện tại và tự nơi cá nhân mỗi người ý thức rằng: “Hành động được phát xuất từ ba nghiệp: thân, khẩu, ý sẽ định hướng cho cuộc sống thiện ác của mình”.

Thị Hoa

(Nguồn: Phụ bản Pháp luân số 3)


Âm lịch

Ảnh đẹp