I. BA LOẠI NGOẠI CẢM
Ngoại
cảm là năng lực truyền thông đặc biệt hai chiều giữa người có năng lực
này với người âm ở thế giới vô hình. Năng lực truyền thông đó không sử
dụng bằng các giác quan của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân như con người ở
thế giới thông thường. Năng lực ngoại cảm có thể giúp nhà ngoại cảm cảm
nhận được tần số tâm thức với các vùng cảm giác, tri giác, tâm tư và
nhận thức của vong linh, đặc biệt của người còn sống thông qua phương
diện sắc diện, liên hệ đến bệnh tật và tuổi thọ của họ.
Nhà
ngoại cảm khi phát hiện ra năng lực đặc biệt này, có người cho rằng đó
là người nửa âm, nửa dương, nhưng theo đạo Phật đây là con người đóng
vai trò rất quan trọng, mang lại niềm hy vọng và hạnh phúc cho hàng ngàn
gia đình, vốn có những thao thức muốn biết thân phận của thân bằng
quyến thuộc đã chết trong các cuộc chiến, do thiên tai, chết bất đắc kỳ
tử hoặc tai nạn gây ra. Công việc của nhà ngoại cảm là bắt nhịp cầu giúp
cho sự đoàn tụ, mang hạnh phúc đến cho người sống và kẻ mất, chẳng
những mang ý nghĩa về phương diện xã hội, mà nó còn là nghi thức thực
tập mang tính chất trị liệu và chuyển hóa rất lớn. Theo quan điểm Phật
giáo, có ba loại ngoại cảm khác nhau.
(1) Ngoại cảm bẩm sinh xuất
hiện từ khi con người có mặt trong bụng mẹ. Năng lực ngoại cảm của các
nhà ngoại cảm bẩm sinh rất cao, và thời gian tồn tại có thể đến cuối
đời. Tại Ấn độ, thời của đức Phật có rất nhiều nhà tiên tri (ngày xưa
người ta dùng thuật ngữ là nhà tiên tri). Chẳng hạn nhà tiên tri A-tu-đà
biết rất rõ về tướng trạng cùng những dự đoán của ông về cuộc đời đức
Phật khá chuẩn xác và thành công.
(2) Ngoại cảm sau một biến cố bệnh lý,
liên hệ đến những chấn động mạnh, tác động tích cực đến vùng hải mã ở
vỏ não. Từ đó, năng lực này làm khai thông và mở cửa hết tất cả nguồn
tiềm năng vốn có ở từng con người và mỗi chúng sanh. Các nhà khoa học
hiện đại cho biết bộ não con người giống như máy siêu vi tính, nó là bộ
máy vi tính lượng tử chứa đựng tối thiểu từ 100 cho đến 200 tỷ neutron
thần kinh. Mỗi neutron thần kinh có chức năng duy trì, giữ các hạt giống
của tri thức, tình cảm, nhận thức và hành động của con người. Nó tạo ra
vùng nhớ và nhiều sử dụng khác nhau trong đời sống. Nghiên cứu cho
thấy, các nhà khoa học chỉ mới sử dụng được vài phần trăm của khối lượng
neutron thần kinh, còn người bình thường như chúng ta thì việc khai
thác, sử dụng lại còn ít hơn nữa.
Nhà
ngoại cảm sau một biến cố chấn động đến lớp vỏ não khiến nó bị thay
hình đổi dạng. Dù cũng là con người như bao con người khác, nhưng năng
lực nhìn thẩm thấu, nghe thẩm thấu và truyền thông thẩm thấu của họ đặc
biệt cao hơn chúng ta. Đến độ trong khoảng thời gian vài năm đầu như
trường hợp nhà ngoại cảm Bích Hằng, cô không tin mình có năng lực đó.
Năng lực ngoại cảm do biến cố thập tử nhất sinh có thể tồn tại với con
người trong 10 năm, 20 năm, 30 năm hoặc có thể suốt đời, tùy theo đời
sống tâm linh và sinh hoạt tinh thần của nhà ngoại cảm như thế nào. Nếu
nhà ngoại cảm đó có đời sống tinh thần vững chãi như người xuất gia thì
năng lực ngoại cảm này có thể sống mãi với họ suốt cả cuộc đời, và theo
truyền thống tái sinh của đạo Phật, ở đời sau họ lại tiếp tục duy trì
được nguồn năng lực ngoại cảm, cho nên họ có khả năng đặc biệt hơn những
người khác.
(3) Ngoại cảm do đào tạo và huấn luyện.
Nhà ngoại cảm được đào tạo và huấn luyện có thể học hỏi được một số
năng lực truyền thông, nhưng giá trị của năng lực này có một giới hạn
nhất định. Họ có thể cảm nhận được sắc thái con người và dự đoán được
người này đang bị vương vào chứng bệnh nào, chết theo cách thế ra sao ở
mức độ đơn giản, nhưng không thể có được năng lực đặc biệt như nhà ngoại
cảm bẩm sinh hoặc nhà ngoại cảm sau biến cố nhất sanh thập tử như vừa
nêu.
II. THẦN THÔNG VÀ NGOẠI CẢM
Phật
giáo đề cập đến khái niệm thần thông tức những năng lực đặc biệt, mà
theo ngôn ngữ ngày nay, một phần trong số đó được hiểu đồng nghĩa với
ngoại cảm. Sáu phép thần thông được kinh điển đạo Phật mô tả bao gồm:
(1) Thiên nhãn thông tức khả năng nhìn thẩm thấu của con mắt mà không lệ thuộc vào con mắt giác quan thông thường;
(2) Thiên nhĩ thông tức năng lực nghe các âm thanh đặc biệt không bị giới hạn bởi thời gian hay không gian vật lý;
(3) Thần túc thông - năng lực khinh thân độn thổ, thần biến bằng nhiều hình dạng ở nơi này và nơi khác;
(4)
Túc mạng thông tức năng lực nắm bắt được vận mệnh của con người từ đại
cương đến chi tiết, diễn ra trong đời quá khứ dựa trên qui luật nhân quả
của bản thân và những người khác;
(5) Tha tâm thông tức năng lực thấu rõ tâm trạng, cảm xúc và nhận thức thầm kín của người khác; và
(6)
Lậu tận thông tức năng lực và tuệ giác nhìn thấy tất cả khổ đau được
nhổ tận gốc rễ khỏi cảm xúc, nhận thức, thân và tâm, đời sống và sinh
hoạt.
So
với sáu thần thông vừa nêu, ngoại cảm liên hệ đến hai năng lực nhìn
thẩm thấu (thấu thị) và nghe thẩm thấu (thấu thính). Cái nhìn thẩm thấu
giúp nhà ngoại cảm có thể nhìn xuyên dưới lòng đất, đoán biết, hoặc chỉ
vẽ sơ đồ ở một nơi rất xa đến hàng trăm cây số mà họ chưa từng đặt chân
tới bao giờ. Thế nhưng các mô tả đó lại chính xác đến từng chi tiết, sự
kiện, dữ liệu diễn ra trong quá khứ và có mặt ở hiện tại. Năng lực thẩm
thấu đặc biệt này được các nhà khoa học gọi là con mắt thứ ba, và kinh
điển đạo Phật gọi đó là Thiên nhãn thông.
Khả
năng nghe của con người có thể bắt được các tần sóng âm phù hợp với
ngôn ngữ, phong tục tập quán nơi mình sinh ra. Nguồn sóng âm khác với
ngôn ngữ con người mà ta có thể tiếp nhận ở mức độ đơn giản. Chẳng hạn
loại sóng âm của các loài động vật mà thông qua đó biết được trạng thái
cảm xúc vui, buồn, cùng những thông tin truyền thông của chúng ở mức độ
tương đối. Nhà ngoại cảm có khả năng nghe rất rõ những cuộc truyền thông
và đối thoại trực tiếp với người cõi âm, do bởi họ có một phần của
Thiên nhĩ thông. Họ nắm bắt được tần số tâm thức của vong hồn đã qua
đời, từ đó tạo ra điểm hội tụ mà khoa học gọi đó là trường sinh học.
Mức độ tập trung cao độ bao gồm các yếu tố về tâm lý, sức khỏe, thời
tiết và lòng thành của thân bằng quyến thuộc còn sống hỗ trợ cho trường
sinh học hội tụ rõ rệt hay mờ ảo. Năng lực tâp trung, đời sống tinh thần
và tâm linh của nhà ngoại cảm càng cao thì điểm hội tụ trường sinh học
càng lớn, giúp cho độ phán đoán về phương vị cũng như nơi ở của hài cốt
hoặc hương linh được chính xác, và không thể nhầm lẫn trong tình huống
có sự trùng tên với nhau giữa các hương linh.
Năng
lực Tha tâm thông xuất hiện ở một số nhà ngoại cảm đặc sắc và nổi tiếng
trên thế giới. Bởi vì một số nhà ngoại cảm có năng lực nhìn thẩm thấu,
nhưng lại không có năng lực nghe thẩm thấu. Do đó, trong những cuộc tìm
kiếm hài cốt để xác định vong linh đã siêu sinh hay chưa, hoặc đang có
mặt ở phương vị nào trên mặt đất thì một số nhà ngoại cảm đạt thành
công, do bởi họ có năng lực nhìn thẩm thấu. Ngược lại, một số nhà ngoại
cảm lại không có năng lực nghe thẩm thấu và truyền thông thẩm thấu,
chính vì vậy mà cơ hội truyền thông giữa người sống và kẻ mất gặp một số
trở ngại. Đối với nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, cô có cả hai năng
lực này nên mức độ chuẩn xác và thành công lên đến trên 10.000 tình
huống.
Bản
chất của Thiên nhãn thông giống như sự hội tụ thấu kính có chức năng
truyền đạt thông tin, và nhà ngoại cảm có thể nắm bắt sự kiện như một
máy chụp ảnh, máy quay phim ghi nhận lại các dữ liệu một cách chuẩn xác.
Người bị khiếm thị, nếu biết tập trung năng lực và có sự hướng dẫn cũng
có thể phát ra năng lực ngoại cảm, và mức độ thành công trong sự tập
luyện này có thể cao hơn người có nhãn quan bình thường như chúng ta.
2. Năng lực thấu thị. Đối
với năng lực nhìn thẩm thấu, nhà ngoại cảm có thể nhìn thấy rõ hình
thù, vóc dáng cho dù thân thể vật lý, hình hài của người quá cố đã qua
đời cách đây vài mươi hoặc vài trăm năm, xương đã tan rã không còn gì để
nhận dạng; nhưng năng lực thẩm thấu này với sự tập trung cao độ giúp họ
hình dung được từ trường năng lượng sinh học của vong linh, và thông
qua đó xác định được phương vị của vong linh hiện đang nằm chỗ nào. Nếu
có sự phối hợp đặc biệt giữa nhà ngoại cảm có năng lực nhìn thẩm thấu và
nhà ngoại cảm có năng lực nghe thẩm thấu thì kết quả của những cuộc tìm
kiếm có thể cao gấp nhiều lần so với những nỗ lực rời rạc, đơn lẻ.
Năng lực thấu thính. Đối
với năng lực nghe thẩm thấu, nhà ngoại cảm có thể nghe được các tần
sóng âm cao thấp khác nhau từ thượng giới, trung giới, hạ giới, tích tụ
và giải mã chúng một cách chuẩn xác về nội dung cũng như những gì mà thế
giới cõi âm đang gởi gắm cho thân bằng quyến thuộc đang còn sống.
Trường sinh học của con người sau khi qua đời không mất hẳn, nó như bản
chất của thế giới vật lý được bảo tồn. Nguồn sinh học về sóng âm này lan
tỏa ra, và nhà ngoại cảm khi thiết lập được tần sóng âm tương thích với
các vong hồn, họ có thể đọc được tâm trạng của các vong hồn này. Khi
ấy, các loại vong hồn sẽ gởi gắm thông tin và lời nhắn nhủ đến thân bằng
quyến thuộc. Vì đặt trên nền tảng truyền thông âm thanh, nên một số nhà
ngoại cảm khó xác định và hỗ trợ được các vong hồn chết trong bụng mẹ,
tức là thai nhi chưa có tiếng nói, chưa chào đời, hoặc vừa chào đời
nhưng vì sự cố nào đó đã phải qua đời một cách tức tưởi thì luồng sóng
âm tạo ra trường sinh học đó không rõ rệt, vì vậy khó có thể giúp họ
được siêu sinh thoát hóa theo tinh thần Phật dạy.
Nhà
ngoại cảm Bích Hằng cho biết, cô đã sử dụng năng lực vừa đối thoại vừa
vấn thoại, dựa vào cuộc đối thoại với một vong hồn mà cô có chủ đích tìm
kiếm. Thỉnh thoảng, cô cũng tình cờ gặp các vong hồn khác không nằm
trong đối tượng tìm kiếm của cô. Những cuộc đối thoại được diễn ra, nhờ
cô có tài ăn nói khéo léo, tạo thiện cảm đặc biệt với thế giới cõi âm,
nên khi tiếp xúc với cô, một số vong hồn ban đầu còn trêu trọc, giỡn
đùa, hoặc không nói thật tình, nhưng cuối cùng họ đành phải thành thật
vì thấy được tấm lòng từ bi, tình thương đặc biệt của cô nhằm giúp cho
thế giới cõi âm được siêu thoát, nên họ hỗ trợ rất đắc lực.
III. CÕI ÂM VÀ TRƯỜNG SINH HỌC CỦA HƯƠNG LINH
Chất
liệu hội tụ của trường sinh học là cơ sở dữ liệu quan trọng để nhà
ngoại cảm giải mã và phán đoán chính xác đối tượng mà họ đang tìm kiếm.
Cho dù hương hồn đã qua đời lúc 3 tháng tuổi, 30 năm tuổi hoặc 100 năm
tuổi thì điểm hội tụ của trường sinh học tỏa ra cũng giống hệt cách thức
trước khi họ qua đời. Ví dụ một bé gái chết lúc 3 tháng tuổi thì nhà
ngoại cảm sẽ cảm nhận được hình thù của vong hồn đó dựa theo cấu hình
vật lý trước khi chết với hình thức là 3 tháng tuổi. Một người 30 tuổi,
dù đã chết cách đây 100 năm thì nhà ngoại cảm vẫn cảm nhận được người
này dưới hình thù vóc dáng là 30 tuổi. Có thể nói, yếu tố trường sinh
học hỗ trợ đặc biệt giúp cho nhà ngoại cảm phán đoán thành công.
Thế
giới cõi âm là thế giới xã hội giống như con người trên dương thế, tuy
nó không có cấu trúc trật tự, không có ranh giới giữa các quốc gia, và
người âm xuất thân từ nhiều quốc tịch khác nhau, nhưng khi qua đời họ
trở thành những người mà đời sống chỉ liên hệ đến dòng cảm xúc, tri
giác, tâm tư và nhận thức. Thế giới vật lý đối với họ chỉ là ảo giác
được hình thành bởi những gì quan trọng và ấn tượng nhất trong cuộc đời,
và khi qua đời những ấn tượng đó vẫn còn lưu giữ lại tạo ra trường sinh
học. Nhờ vào sự hội tụ của trường sinh học mà nhà ngoại cảm có thể tiếp
nhận và thấy được vong hồn với vóc dáng, hình thù giống hệt như lúc
còn sống.
Tại
sao đôi lúc có những hiện tượng thân bằng quyến thuộc chưa siêu thoát
trở về nhà yêu cầu người thân hãy cúng giấy tiền vàng mã hay các phẩm
vật khác? Họ có thể về báo mộng rằng tôi đang khát sữa, nếu các vong hồn
đó là bé trai hoặc bé gái đang sống trong sự chăm sóc, nuôi nấng bằng
sữa mẹ. Hoặc những cụ già có thể về báo mộng với con cháu mình rằng cha
mẹ đang thiếu quần áo, nên cúng đốt vàng mã gởi xuống cho họ. Theo Phật
giáo, sở dĩ có hiện tượng trên là do khi còn sống các vong hồn này từng
có những quan niệm sai lầm về thế giới cõi âm. Họ nghĩ rằng cõi âm là
cõi tồn tại lâu dài và vĩnh hằng cần phải đầu tư tất cả, còn cõi dương
với thời gian tồn tại chỉ vài mươi năm là hết, bởi thế dân gian Trung
Hoa thường có câu:“Sanh ký, tử quy” tức là “sống gởi, thác về”.
Kim
tự tháp nguy nga tráng lệ của các vị Faraon (vua Ai Cập) cũng phát xuất
từ quan niệm sai lầm về hai cảnh giới sự sống này. Một bên vĩnh hằng và
một bên tạm thời, vì vậy mà họ đầu tư rất nhiều cho thế giới của cái
chết; thậm chí họ chôn theo cả người thân, người thương, gia tài, của
cải, châu báu xuống dưới cõi âm để tiếp tục hưởng thụ đời sống đó.
Người Trung Hoa khi tiếp thu lại nền văn hóa này đã có những cải biên
tích cực. Thay vì chôn người và của cải châu báu thật thì họ cải biên
lại bằng nhiều hình thù khác nhau của các loại giấy vàng mã, mà giá trị
gởi gắm tình thương cho mối quan hệ giữa người quá cố và người còn sống
vẫn được duy trì.
Trong
nền văn hóa châu Á, chăm sóc cho người quá cố là đồng nghĩa mang lại
hạnh phúc cho những người đang sống ở dương thế. Mối quan hệ tình thân,
tình thương giữa người sống và kẻ chết không kết thúc khi người đó nhắm
mắt lìa đời, mà tiếp tục đến vài mươi năm hoặc vài kiếp sau nữa. Chính
vì vậy, ảo giác sai lầm khi còn sống ảnh hưởng khá trừu tượng đối với
thế giới cõi âm. Người không tin có đời sau cho rằng sau khi chết con
người không còn gì, hình hài sắc thân trở về với cát bụi, thần thức với
bốn loại hình gồm cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức sẽ không còn
điều kiện để tồn tại và phát triển. Vì vậy, sau khi qua đời, họ không
chuẩn bị cho sự tái sinh, bởi quan niệm rằng chết là dấu chấm cuối cùng
trong đời sống của mình.
Có
rất nhiều người suốt cả cuộc đời làm việc thiện, phước báu, sống cho
quê hương xã tắc, làm những việc đem lại lợi ích cho cộng đồng và xã
hội, ấy thế mà họ không ra đi được. Do vì không tin tưởng rằng, có một
thế giới tiếp tục trong tiến trình tái sinh tùy theo nghiệp lực. Các ách
tắc, trở ngại trong tiến trình tái sinh đều liên hệ đến quan điểm khi
còn sống. Bởi phần lớn con người khi chết đi đều chưa chấp nhận cái chết
diễn ra với mình là một sự thật, tiếc nuối đó đã mang lại tâm lý sợ
hãi. Chính vì thế, chúng ta thường nghe người xưa hoặc nhà ngoại cảm kể
lại, tiếp xúc với hương linh thường là nỗi khổ đau cùng cực với những
giọt nước mắt sầu thương, họ mong mỏi cuộc sống này có thể kéo dài thêm
một vài năm nữa, ấy thế mà cái chết đã đến với họ như một sự thật.
Phủ nhận cái chết diễn ra như một sự thật, các hương hồn trở thành vất vưởng bơ vơ, nay đây mai đó, trở thành những vong hồn“hồn đơn phách chiếc”.
Do đó mà công tác tìm kiếm, xác định thông qua sự đối thoại, vấn thoại,
cùng những nỗ lực của người còn sống giúp hương linh được siêu sinh
gặp khá nhiều khó khăn. Bởi khi còn sống tâm lý của người đó như thế
nào thì khi qua đời trạng thái tâm lý đó sẽ ám ảnh và có mặt với hương
linh như thế đó, tính khí lúc còn sống ra sao thì khi chết hương linh
cũng sẽ mang tính khí đó. Ví dụ lúc còn sống, chàng thanh niên là một
người hài hước thì khi qua đời, tiếp xúc với họ cũng sẽ thấy tính cách
khôi hài này chẳng khác gì so với lúc còn sống. Hoặc nếu là người cau
có, khó chịu, dễ hờn dỗi, tự ái, mặc cảm, sĩ diện thì khi qua đời các
trạng thái tâm lý đó vẫn giữ nguyên như vậy. Nếu không có sự trợ niệm
đắc lực của những nhà tu hành và thân bằng quyến thuộc thì cấu trúc tâm
lý đó vẫn theo đuổi, khiến họ khó có thể gặp được nhà ngoại cảm; mặc dù
nhà ngoại cảm đang nỗ lực tìm kiếm, giúp đỡ họ.
Nhà
ngoại cảm Bích Hằng cho biết, 40% tình huống bị thất bại, không thành
công ngoài các yếu tố vừa nêu còn có yếu tố bản thân của hương linh đó
không sẵn sàng chấp nhận sự hỗ trợ, trợ niệm. Họ đã lẩn tránh, vì vậy mà
trường sinh học trở nên mờ ảo, khi tồn tại chỗ này, khi hiện hữu chỗ
khác, khó có thể nhận dạng được phương vị của họ đang nằm vị trí nào. Có
những tình huống vong hồn thì còn nhưng xác và cốt lại được đưa đi nơi
khác. Bản chất của hương linh thường bám víu vào nơi cái chết diễn ra
với họ, ví dụ như ở chiến trường, họ sẽ giữ lại và xem nơi đó như là
cảnh giới sống của họ. Khi cốt được chôn dưới lòng đất, một số hương
linh không nhận dạng ra nó đang nằm ở đâu, nhưng đại đa số đều có thể
nhận dạng được. Hoặc khi tro cốt được đưa về một nơi nào đó để thờ tự,
nhưng do bản chất quyến luyến, không chấp nhận cái chết, khiến họ phải
chầu trực mãi ngay tại địa điểm diễn ra cái chết. Chính vì thế, những
cuộc tìm kiếm thông qua năng lực của nhà ngoại cảm, đôi lúc thành công
khá cao, nhưng đôi lúc cũng bị thất bại không như như ý muốn.
Quan
điểm của Phật giáo giữa sự sống và cái chết chỉ là một dấu chấm trên
một đường thẳng dài được kết nối bằng hàng triệu, hàng nghìn các dấu
chấm khác. Mỗi một đời sống, sanh và tử của mấy mươi năm chỉ là một dấu
chấm, đừng quan niệm chết là hết, hoặc chết là dấu chấm cuối cùng. Nhờ
niềm tin như thế nên sau khi qua đời, chúng ta hướng tâm về đời sống tùy
theo nghiệp dẫn dắt mình đi, từ bỏ được quan niệm tiếc nuối, sợ hãi,
chấp trước, nhất là tình cảm giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, tình thân
hữu, nghĩa tri kỷ, tình đồng bào v.v… Tất cả sợi dây tình cảm quyến
luyến đó đối với thế giới cõi âm đều là sợi dây xích.
Thể
hiện tình cảm thương yêu nhiều chừng nào thì sự trói buộc trong tiến
trình sinh tử sẽ diễn ra nhiều chừng đó. Mỗi giọt nước mắt, dòng cảm xúc
sầu khổ, đau thương, hoặc mỗi sự quyến luyến, bịn rịn của những người
còn sống đều có thể khiến cho người quá cố động lòng trắc ẩn, nhất là
người có tinh thần trách nhiệm, là trụ cột kinh tế của gia đình sẽ không
an tâm mà ra đi vĩnh viễn. Qui luật tâm lý lúc còn sống ảnh hưởng nhiều
đối với hương linh sau khi qua đời. Do đó, để có tiến trình tái sinh
tốt thì thân bằng quyến thuộc cần hỗ trợ cho hương linh một cách đắc
lực.
Hỗ
trợ quan trọng liên hệ đến các qui luật mà bản chất của nó giúp hương
linh tháo gỡ được sự chấp trước về cái tôi. Theo quan điểm Phật giáo,
cái tôi được hình thành bởi năm tổ hợp: hình hài, cảm xúc, tri giác, tâm
tư và nhận thức. Khi một hương linh qua đời, năm tổ hợp đó chỉ còn hai
đó là hình hài và ý thức. Hình hài và ý thức bắt đầu bị tách đi theo
cách thức ly tâm vĩnh viễn, trong khi bản chất tâm thức của hương linh
lại cố níu kéo vào hình hài, vóc dáng, và càng níu kéo nhiều chừng nào
thì tiến trình tồn tại với cảnh giới cõi âm diễn ra tỉ lệ thuận nhiều
chừng đó. Vì vậy, tại sao có tình huống người thì qua đời chỉ vài phút
sau là đã đi tái sanh, nhưng cũng có người phải mất đến mấy mươi năm,
hoặc thậm chí là vài thế kỷ vẫn chưa thể siêu sinh.
Do
bởi hương linh còn tiếc nuối về cảm xúc, tình yêu, gia tài, sự nghiệp,
công trình, dự án, tinh thần trách nhiệm nên không thể an tâm mà đi.
Trong các cuộc chiến, dù đứng từ bất kỳ góc độ nào, ý thức hệ chính trị
nào thì các hương linh sau khi qua đời đều là nạn nhân của sự chấp trước
trong cảm xúc, tình cảm hoặc bất kỳ điều gì đối với người còn sống. Sự
chấp trước này sẽ làm cho thế giới cõi âm bị kéo dài, khổ đau ngày càng
lớn. Vì lẽ đó, trong kinh điển đức Phật thường gọi thế giới cõi âm là
ngạ quỷ. Ngạ là đói khát, đói về vật thực, cảm xúc, tình thương, cuộc
sống và tất cả những gì họ từng có trong cuộc đời, trong suốt chiều dài
của tiến trình sanh và tử.
Sự
đói khát về mọi phương diện khiến họ trở thành các cô hồn vất vưởng
trong thương đau. Trong các ngôi chùa của Phật giáo Bắc tông, cứ 4 giờ
chiều mỗi ngày thì lễ cúng cô hồn thường diễn ra trong nghi thức với sự
quán tưởng và hành trì long trọng. Sự quán tưởng và hành trì giúp cho
người hành trì thiết lập được tần số tâm thức, và tần số tâm thức này có
thể giao tiếp được với trường sinh học của hương linh. Khi hương linh
tiếp nhận được tần số tương đương sẽ nghe được lời kinh tiếng kệ, cảm
nhận được tấm lòng của người còn sống và đặc biệt là những vị xuất gia
trong các ngôi chùa, nương theo Phật pháp nhiệm màu, rũ bỏ sự chấp trước
về phương diện cảm xúc, từ đó mới có thể nhẹ nhàng ra đi.
Từ
hàng ngàn năm qua, trong các ngôi chùa Phật giáo Bắc tông có nghi thức
trai đàn chẩn tế mang ý nghĩa trị liệu và chuyển hóa rất lớn. Lễ trai
đàn thường được tổ chức trong khuôn viên ngôi chùa, nơi mà vùng từ
trường của lòng từ bi và giá trị trị liệu luôn tỏa ra xung quanh, giúp
các hương linh hội tụ về. Trong cuộc chiến, các vong hồn có thể là kẻ
thù của nhau lúc còn sống nhưng nhờ ảnh hưởng của vùng từ trường tâm
linh và lòng từ bi mà họ trở thành người thân, giải tỏa được bế tắc và
thù hận lẫn nhau trong cuộc đời. Nhờ đó, cơ hội giải phóng kiếp cô hồn,
ngạ quỷ dưới cõi âm cũng dễ dàng thực hiện.
Việt
Nam với diện tích 320.000 km, có trên ba triệu người đã chết trong
chiến tranh, trong số đó có khoảng một triệu lính miền Bắc mà hiện vẫn
còn một nửa chưa tìm được hài cốt, nếu làm một bài toán thì cứ trung
bình một mét vuông có đến mười hài cốt. Các nhà ngoại cảm dù số lượng đã
lên đến trên 100 vị và được xem là số lượng lớn nhất thế giới, nhưng
vẫn không thể giúp hết cho các hương hồn có cơ hội đoàn tụ với gia đình.
Ngoài ra, trên hành tinh này vẫn còn hàng triệu triệu sinh linh khác đã
nằm xuống từng ngày, từng giờ, từng giây và từng phút. Nỗ lực của các
nhà ngoại cảm rất cần thiết, nếu có sự phối hợp giữa nhà ngoại cảm và
nhà tâm linh Phật giáo; giúp hương linh được siêu sinh thoát hóa là đồng
nghĩa với việc mang an vui và hạnh phúc cho cõi dương, nhất là thân
bằng quyến thuộc của người đang còn sống.
IV. CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HẾT
Các
tôn giáo như Do Thái, Thiên Chúa, Tin Lành, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Nho
giáo v.v… quan niệm rằng con người có mặt là do Thượng đế ban tặng sự
sống, mượn bào thai của người mẹ để hình thành. Các triết gia Hi Lạp cổ
đại quan niệm rằng con người đến từ đất, nước, gió hoặc lửa. Chủ nghĩa
duy vật hiện đại quan niệm con người đến từ vật chất. Các quan niệm về
nguồn gốc có mặt của con người dẫn đến việc thành lập những học thuyết
lý giải về sự ra đi và nơi chốn sinh về của con người, hoàn toàn khác
nhau.
Các
nhà duy vật cho rằng sau khi chết con người sẽ trở về với nguyên lý vật
chất. Đời sống con người chỉ có một kiếp sống duy nhất ở hiện tại. Sinh
ra từ vật chất, phát triển ý thức, sống và làm việc trong cuộc đời; đến
lúc già, bệnh và chết là dấu chấm cuối cùng, sau cái chết sẽ không còn
gì nữa. Quan điểm đó được đạo Phật cho là cái nhìn giới hạn (đoạn kiến).
Theo
Phật giáo, đối với thế giới sinh học gồm con người và các loài động vật
thì cái chết không phải là dấu chấm cuối cùng. Cái chết giống như một
con đường thẳng được nối kết bằng nhiều dấu chấm khác nhau. Chết ở nơi
này là để tiếp nối sự sống ở nơi khác. Các nhà tôn giáo học hữu thần cho
rằng con người được tạo ra bởi Thượng Đế và khi chết chỉ có hai cảnh
giới tái sinh, hoặc lên Thiên đường để hưởng nhan đức chúa đời đời nếu
tin Chúa. Trái lại, kẻ nào dám đặt vấn đề, không tin Chúa được xem là
con chiên ngoài đàng, sau khi chết bị đày xuống hoả ngục và thiêu rụi
kiếp kiếp. Quan niệm này Phật giáo cũng gọi là đoạn kiến, vì không phản
ánh được bản chất sự sống không có điểm bắt đầu và không có điểm kết
thúc.
Hậu
quả của cái nhìn đoạn kiến sau khi con người chết là hết sẽ dẫn đến một
đời sống buông lung và thiếu trách nhiệm đạo đức. Bởi nếu người thiện
và kẻ ác đều có kết cục giống nhau thì cần chi phải làm lành lánh dữ. Có
nhiều người, dù không tin có đời sau nhưng do sự giáo dục, tiếp xúc với
người hiền lương, nên vẫn là con người tốt trong quãng thời gian nhất
định. Đến khi gặp nhiều cạm bẫy, đánh mất sự làm chủ bản thân, người
không tin kiếp sau có thể trở thành kẻ bị lún sâu trong vũng lầy nghiệp
xấu và tội ác.
Quan
điểm của các nhà duy vật Carvaka của Ấn Độ cổ xưa cho rằng sau khi con
người chết, thân thể tâm vật lý sẽ trở về với cát bụi. Họ quan niệm rằng
ý thức chỉ là một phần của vật chất. Các nhà duy vật biện chứng thời
hiện đại, dù tiến bộ hơn nhiều những vẫn cho rằng sau khi chết, không có
sự tái sinh.
Đức Phật khẳng định rằng quan niệm chết là hết, không có sự tiếp tục kiếp sau là một quan niệm sai lầm. Học thuyết “bất sanh, bất diệt”
trong Bát Nhã Tâm Kinh cho rằng nếu mọi sự vật, hiện tượng không tự nó
sanh ra, tức không có nguyên nhân khởi đầu thì nó cũng không có sự kết
thúc vĩnh viễn. Sau cái chết, sự sống của con người được chuyển từ hình
thái này sang hình thái khác tùy theo nghiệp chung và nghiệp riêng của
mỗi người.
Nếu
kết cuộc của sự sống và cái chết đều giống nhau, chẳng ai muốn làm lành
lánh dữ hay nỗ lực dấn thân phục vụ xã hội để làm gì. Niềm tin có một
kiếp sau sẽ giúp con người nghĩ đến tính trách nhiệm đạo đức trong mỗi
hành động, lời nói, và việc làm ở hiện tại và tương lai. “Bất sanh bất
diệt” vẽ ra tiến trình sống chết của các chúng sinh, nhằm khẳng định
rằng chết chỉ là một phần của sự sống. Sự sống nào cũng dẫn đến cái
chết. Sống và chết tương tác, như sóng và nước không thể tách rời. Quan
niệm sống chết của đạo Phật ngày nay được chứng minh phù hợp với vật lý
học hiện đại.
V. KHÔNG CÓ ÂM PHỦ DƯỚI LÒNG ĐẤT
Đạo
Phật khẳng định giữa sống và chết có khoảng trung gian quyết định loại
hình và cảnh giới sự sống. Khoảng trung gian đó tồn tại dài hay ngắn tùy
thuộc vào thái độ buông xả hay dính mắc của người chết trong giờ khắc
cái chết diễn ra. Người Phật tử được huấn luyện chuyển hóa sẽ thấy cái
chết là điều rất bình thường, không có gì đáng sợ hãi. Nhờ đó, dòng cảm
xúc tiếc nuối về sự sống, người thân thương, gia tài sự nghiệp được
chuyển hóa, nên tiến trình tái sinh được “thuận buồm xuôi gió”.
Những
ai có thói quen tiếc nuối điều gì thuộc về quá khứ mà không chịu chuyển
hóa ngay lúc đang còn sống thì khi chết, dòng cảm xúc tiếc nuối là một
ách tắc lớn cho tiến trình tái sinh. Cá tính của người còn sống được lưu
truyền trong tái sinh dưới hình thức quán tính hoặc thói quen. Năng lực
quán tính sẽ định hướng cá tính, nghề nghiệp, sở trườn và thái độ ứng
xử của người đó ở đời sau. Tính cách này hiếm khi thay đổi nếu không có
sự hỗ trợ tích cực của giáo dục định hướng.
Quan niệm của Nho giáo về “sanh ký tử quy”, nghĩa là “sống gởi thác về”
là một nhận thức sai lầm về cảnh giới sống của người chết là dưới lòng
đất, cần được thay đổi. Nếu con người nghĩ rằng sống tạm ở nhờ, gởi gấm
thân phàm trên cõi đời trong mấy mươi năm thì khó mà sống có chất lượng
về đạo đức, tâm linh, đóng góp và phục vụ cho xã hội. Từ quan niệm cõi
dương chỉ tồn tại mấy mươi năm, cõi âm mới là cõi tồn tại vĩnh viễn,
giới vua chúa Ai Cập đã cho xây dựng các kim tự tháp hoành tráng bằng mồ
hôi, nước mắt và cái chết của người dân vô tội, ngay cả người thân
thương nhất của vua cũng bị chôn sống theo, cùng với nhiều vàng ngọc
châu báu. Bởi họ nghĩ rằng cảnh giới âm phủ giúp họ tồn tại lâu dài nên
đã tạo ra những điều bất nhẫn và bất nhân.
Về
quan niệm này, người Trung Hoa có sự cải biên. Thay vì chôn người sống,
nhà thật, vàng bạc thì họ làm bằng giấy vàng mả. Trong tình huống này, ý
niệm về sự chôn cất vẫn còn, sát sanh bằng tâm vẫn thầm lặng diễn ra.
Vẫn còn nhiều người tin vào phong tục sai lầm này, nên khi chết đi họ cứ
bám vào ảo giác nghĩ rằng mình đang cần áo quần để mặc, nhà cửa để ở,
thực phẩm để ăn. Tồn tại với thân trung ấm, các hương linh có cảm giác
đói khát về cảm xúc, nhận thức và hưởng thụ của các giác quan, mà khi
còn sống họ đã từng trải qua. Đức Phật khẳng định không có âm phủ nào để
trở về, chỉ có những cảnh giới để tái sinh, bao gồm năm cảnh giới
chính: ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, con người, và chư Thiên.
Địa
ngục không phải là cảnh giới dưới lòng đất và càng không phải là một
loại hình sự sống. Kéo dài sự tồn tại dưới hình thức hồn ma bóng vía của
thân trung ấm sẽ làm cho người quá cố chất chồng thêm khổ đau không
gián đoạn, và cũng không có bất cứ phương tiện nào để thể hiện niềm vui.
Đây là hình ảnh diễn tả bản chất nỗi đau đối với loài ma quỷ chưa được
siêu.
VI. CHẾT VÀ TÁI SINH THEO NGHIỆP
Về
bản chất tái sinh, ngài Na Tiên tỳ kheo đưa ra một ví dụ sâu sắc về
hình ảnh cái cây. Cho dù cây có đứng thẳng cách mấy vẫn có độ nghiêng
nhất định. Nếu dùng máy cưa hay dụng cụ cắt một thân cây thì chắc chắn
cây sẽ ngã về phía nó đang bị nghiêng. Nếu độ nghiêng của cây khoảng 100 trở lên thì sự ngả sẽ diễn ra trước khi cái cây bị cưa đứt, lớp vỏ bên ngoài sẽ bị gãy đổ tức khắc.
Tương
tự, dòng chảy của nghiệp qua nghề nghiệp và những gì được lặp đi lặp
lại sẽ trở thành quán tính của hành vi. Chính quán tính nghiệp đẩy con
người tái sinh theo một quỹ đạo, mà đôi lúc người chuẩn bị ra đi không
có sự lựa chọn. Tất cả người chết phải tái sinh theo sức đẩy của nghiệp.
Sức đẩy này tạo ra sự thiên sai vạn biệt của sinh giới với những yếu tố
bẩm sinh, cá tính, khuynh hướng, lối sống vốn chịu ảnh hưởng từ cộng
nghiệp văn hóa, phong tục tập quán khác nhau. Chẳng phải ngẫu nhiên mà
con người có và duy trì được phong tục tập quán khác nhau. Trong tiến
trình tái sinh, tất cả thói quen của văn hóa, phong tục tập quán và lối
sống được lưu giữ lại dưới dạng thức năng lực nghiệp. Năng lực nghiệp
chi phối khuynh hướng sống của con người từ lúc có mặt trong bào thai
người mẹ.
Nghiệp
cảm tương thích giữa người mới chết và cha mẹ tương lai sẽ tạo ra sự đi
về của tái sanh. Ở đây cần có sự tương ứng nghiệp, cùng họ hàng nghiệp,
sự tái sinh mới hình thành được, theo đó, người mới được sinh ra sau
mười tháng có cùng mẫu số nghiệp với cha mẹ và họ hàng, để cùng chịu một
hệ cộng nghiệp, được thể hiện qua gien di truyền, tướng mạo, màu da,
bối cảnh gia đình và lối sống.
Trong
kinh, đức Phật đưa ra ẩn dụ về cây nến, nếu dùng lửa thắp sáng ngọn nến
lên thì từ cái không lửa sẽ trở thành có lửa. Lửa có thể bị chong chênh
nếu ta dùng tay lắc, hoặc một cơn gió thổi qua thì ánh sáng đó bị lập
lòe, do tác động của sự vận chuyển không khí. Nếu tác động này quá mạnh,
lửa có thể bị tắt, và lúc này điều gì xảy ra với ngọn lửa? Đức Phật đã
đặt ra câu hỏi đó. Một số vị tỳ kheo trả lời:
-
Lửa sẽ đi theo hướng của gió thổi. Nếu gió thổi qua từ phía bên tay
trái thì lửa sẽ bị tắt và bay về phía tay trái. Tương tự, lửa có thể bay
về hướng đông, tây, nam, bắc.
Đang khi nhiều vị tỳ kheo khác im lặng, đức Phật dạy như sau:
-
Việc tìm kiếm và định hướng sự ra đi của lửa là điều không cần thiết.
Trong khi ngọn lửa đã bị tắt, việc bàn luận nó đi về hướng nào là một
vấn đề không thích hợp.
Ví
dụ này được Thế Tôn đưa ra để nói về cái chết, về sự ra đi của những vị
xuất gia chân chính có một đời sống tu học vững chãi, đạt được giá trị
an lạc ở hiện đời thì sự giả định về tiến trình tái sinh của người đó về
hướng A, B, hoặc C là điều không thích hợp. Bởi vì các ngài sẽ ra đi
theo nguyện ước, thay vì đối với các chúng sinh, sự ra đi là theo
nghiệp. Nói cách khác, có hai sự đi của cái chết. Tái sinh theo nghiệp
dẫn và tái sinh theo phát nguyện.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn,
đức Phật đã có câu trả lời làm thỏa mãn những người tò mò về sự ra đi
của người đã giác ngộ. Phật đưa ra hình ảnh ẩn dụ về cái chết và tái
sinh của các bậc chứng đạo cũng tương tự như vầng mặt trờ. Cũng giống
như sự xoay chiếu của mặt trời 12 tiếng vào ban ngày vừa kết thúc thì
bóng tối cũng bắt đầu xuất hiện. Lúc đó, không có nghĩa là mặt trời bị
mất đi, nó vẫn tiếp tục rọi sáng ở nửa bên kia trái đất, nghĩa là mặt
trời vẫn tiếp tục tồn tại vào ban đêm ở cảnh giới mà ta không thấy được.
Điều đó chứng tỏ cái chết và tái sinh của các bậc chứng đạo đi theo
nguyện ước của các ngài, miễn là nơi nào có nhân duyên, và thông qua
nhân duyên đó, sự lợi lạc, an vui và hạnh phúc của chúng sanh được thiết
lập.
VII. TÂM LÝ TRƯỚC CÁI CHẾT
Tâm
muốn về chỗ nào, nguồn năng lượng tái sinh đẩy ta về chỗ đó. Những đột
biến tâm lý vào giờ phút cuối cùng trước khi chết có thể diễn ra theo
chiều hướng tốt hoặc xấu. Có người suốt đời làm điều xấu, nhưng những
năm tháng cuối đời được hướng dẫn điều hiền lương, đạo đức, nên họ hồi
đầu, ăn năn, sám hối, làm lành, ăn chay, tu phước thì cận tử nghiệp này
mở ra tiến trình tái sinh tốt đẹp. Còn người chưa chuyển hoá được nội
tâm, sự thanh tịnh chưa trọn vẹn thì khi đối diện cái chết, nỗi sợ hãi,
sự tiếc nuối v.v… có thể làm sự tái sinh xấu đi.
Thái
độ bình thản đối với sự sống và cái chết, không bận lòng bởi các cảnh
ngộ sẽ giúp người sắp chết có cái chết an lành. Chết là điều mà sớm hay
muộn ai cũng phải một lần trải qua. Vấn đề sống thọ hay chết yểu không
quan trọng. Điều quan trọng là sống như thế nào, tức chất liệu và chất
lượng đời sống ra sao mới là điều đáng quan tâm. Nếu suốt quá trình sống
ta làm lành lánh dữ, an vui, hạnh phúc thì nghiệp này sẽ tạo ra tiến
trình cận tử nghiệp có cùng chiều hướng tốt, lúc đó tâm được an và ra đi
nhẹ nhàng. Đó là điều phúc cho người quá cố lẫn thân bằng quyến thuộc.
Theo
tâm lý học đạo Phật, luyến tiếc vào các kỷ niệm vật sẽ là cản lực lớn
cho tiến trình tái sanh. Hương linh sẽ có cơ hội bám víu vào thi thể, kỷ
niệm vật, nơi có kỷ niệm hạnh phúc. Trong nền văn hóa phương Tây, người
ta có khuynh hướng trang điểm cho người chết trước khi tẩm liệm. Người
làm nghề trang điểm sẽ đánh phấn, tô son cho người chết, nhằm làm cho
người chết nằm yên nghỉ trong tư thế ngủ an lành. Nhiều người cứ nghĩ
rằng làm như thế là thương tưởng, quý trọng người ra đi, mà trên thực tế
tình huống này sẽ làm cho hương linh dễ bị chấp trước và dính mắc nhiều
hơn. Bởi lúc còn sống mình không đẹp mà khi chết mình lại đẹp như vậy,
khiến hương linh có tâm trạng tiếc nuối, muốn bám víu vào hình hài, thân
thể đó không muốn ra đi. Do đó, một số lương linh có thể tiếp tục tồn
tại dưới hình thức khổ đau của ngạ quỷ.
Khi
thái nuối tiếc xuất hiện, hương linh thường bám víu vào bất kỳ kỷ vật
nào, bao gồm hài cốt, mộ huyệt, di ảnh, mồ mả, đền thờ họ tộc, giọng nói
được ghi âm và các video. Chấp vào các di vật như những bản sao về đời
sống quá khứ của hương linh sẽ làm hương linh chấp dính vào, nên bị trì
hoãn trong tái sinh. Trong kinh, đức Phật nêu ra các tình huống tiếc
nuối:
- Gia tài, sự nghiệp khiến hương linh nuối tiếc, khó có thể buông.
-
Tình yêu giữa vợ và chồng (trường hợp này nguy hiểm nhất), giữa cặp
tình nhân; tình thương da diếc giữa cha mẹ và con cái, anh chị em.
-
Các dự án, kế hoạch chưa làm xong nên họ không sẵn sàng chấp nhận cái
chết. Sự tức tối trong tình huống này sẽ khiến hương linh rơi vào trạng
thái ngạ quỷ.
Nói
chung, bám vào bất kỳ cái gì trên đời này trong giới phút chết có thể
làm cho sự ra đi của hương linh gặp trục trặc, kẹt lại một thời gian
trong cảnh giới thân trung ấm, vốn là một điều bất hạnh cho người mất.
VIII. LỰA CHỌN CÕI ĐI VỀ
Mấu
chốt quan trọng là làm chủ tâm thức trong lúc sống thì khi vô thường,
tử biệt đến, người ra đi giữ được trạng thái nhất tâm bất loạn, nhẹ
nhàng vẫy tay chào với cuộc đời, tiếp tục tái sinh theo nghiệp. Người
chết phải tiếp tục tái sinh ở những gia đình tương thích về nghiệp, nhằm
tiếp tục sự sống dở dang. Cõi đi về của con người là tái sinh theo
nghiệp lực hoặc tái sinh theo phát nguyện.
Trong
bản đồ 10 pháp giới, có 6 pháp giới thuộc cõi phàm, 4 pháp giới thuộc
cõi thánh. Bốn cõi Thánh gồm Phật, Bồ-tát, A-la-hán và Thanh văn (Độc
giác hoặc Duyên giác). Sáu cõi phàm gồm như sau. Thứ nhất là chư Thiên,
nghĩa là con người ngoài hành tinh có phước báu, tuổi thọ, hình thù, sức
khỏe, và sự bình an cao hơn con người ở cõi Ta bà này. Thứ hai là nhân,
nghĩa là con người chúng ta, sống trong kiếp người ở hành tinh cõi Ta
bà này được xem là trung bình về phước và nghiệp.
Thứ
ba là A-tu-la, được gọi là các vị thần. Ở Việt Nam, A-tu-la được tôn
thờ ở Đình, Bà được tôn thờ ở Miếu. Văn hóa Đình ở miền Bắc gắn liền với
chùa, Đình thường được xây dựng cạnh chùa. Đình thờ những vị quan tướng
có công với quê hương xã tắc, còn được gọi là Thành Hoàng của địa
phương. Đây là nghệ thuật nhớ ơn và ghi nhận công đức của những người có
công đóng góp cho quê hương xã tắc.
Thứ
tư là súc sinh, những ai lúc còn sống đặt nặng sự hưởng thụ dục lạc đến
độ sa đọa, tâm độc ác, thú tính, hoặc tiếc nuối tài sản, sau khi chết
nếu hết phước phải sinh vào loài cầm thú, gia súc. Đó là bất hạnh lớn vì
loài thú không phát triển ý thức. Khi mang thân phận của loài cầm thú,
gia súc thì chẳng biết đến kiếp nào mới có thể đầu thai làm người. Loài
thú trong các rạp xiếc có năng lực trực quan mạnh nên nghe, cảm nhận
được ngôn ngữ và thực hành theo sự huấn luyện của con người.
Thứ
năm là ngạ quỷ, có thể tồn tại nơi mồ mả, bàn hương án, nơi cái chết đã
diễn ra, và có mặt giữa ban ngày chứ không chỉ vào ban đêm. Đa số hương
linh đều rất cần sự giúp đỡ của những người còn sống. Do đó, ta không
nên sợ ma, vì ma không thể hại con người. Ma là đối tượng đáng thương do
vì oan ức, tiếc nuối, hận thù, không biết cách tháo gỡ nên họ cứ lẩn
quẩn trong cảnh giới sinh tử không siêu thoát được. Ta cần thực tập lòng
từ bi hỗ trợ cho hương linh rủ bỏ thân phận khổ đau thông qua các khoá
lễ cầu siêu.
Thứ
sáu là địa ngục, vốn không có thật, chỉ là cách để răn dạy con người về
nhân quả đạo đức. Thực tế, không có địa ngục thật mà chỉ có địa ngục
trần gian. Theo kinh Địa Tạng định nghĩa, địa ngục là nỗi đau
được tiếp nối không gián đoạn. Kẻ làm ác liên tục, tạo nỗi khổ niềm đau
cho người khác là đang thiết lập địa ngục giữa đời thường.
Trên
thực tế chỉ có tám cảnh giới, trong đó Thanh văn, Duyên giác và
A-la-hán là ba danh xưng khác nhau nhưng chỉ chung một trình độ tâm linh
A-la-hán. Bậc Thánh chỉ có ba gồm: Phật, Bồ-tát và A-la-hán. A-la-hán
gồm có Thanh văn, Duyên giác, hoặc Độc giác. Bậc phàm gồm năm cảnh giới:
nhân, thiên, A-tu-la, ngạ quỷ và súc sinh. Tám cảnh giới này là hệ vận
chuyển trên tâm thức baom gồm nghiệp hoặc phước của con người. Vì vậy,
khi chết con người đi theo nghiệp hoặc phước.
Tiến
trình tái sinh lệ thuộc nhiều vào nghiệp. Nghiệp phước dẫn đến cảnh
giới tái sinh tốt, nghiệp tội dẫn đến cảnh giới tái sinh xấu. Tin tưởng
vào nhân quả sẽ có cảnh giới tái sinh an lành. Điều quan trọng nhất phải
rũ bỏ sự chấp trước mới có thể ra đi nhẹ nhàng.
IX. HỖ TRỢ NGƯỜI RA ĐI
Để hỗ trợ sự ra đi của người chết một cách nhanh chóng và an toàn, ta cần lưu tâm một số nội dung sau đây:
1. Truyền thông điệp buông xả
Trên
thực tế, người thân nào cũng muốn người quá cố có nhiều công đức để có
thể tái sinh vào một cảnh giới an lành. Nên nhớ rằng đứng trước cái
chết, nỗi sợ hãi sẽ có mặt, và càng cố tình phủ định sợ hãi nhiều chừng
nào thì nỗi sân hận lại diễn ra nhiều chừng đó. Tình yêu, oan ức, uất
hận, hận thù, tai nạn, kế hoạch chưa hoàn tất, trước lúc chết có thể trở
thành ách nạn cho tiến trình tái sinh.
Trong
lúc làm lễ hộ niệm cho người chết, cần truyền thông điệp rằng: “Bản
chất của sự sống và cái chết được qui luật nhân quả trong tự thân mỗi
người định đoạt. Hãy hoan hỷ chấp nhận cái chết diễn ra như một sự thật.
Đừng bám víu vào thân thể này; đừng bám víu vào những kỷ niệm đẹp và
xấu, hạnh phúc và khổ đau hay bất cứ điều gì. Hãy buông bỏ tất cả để nhẹ
nhàng ra đi.” Nếu là người theo Phật giáo, người truyền thông điệp nên
nhắc nhỡ thêm: “Hãy chuyên tâm niệm Phật để vượt qua nỗi sợ hãi và mọi
chấp trước.” Người theo tôn giáo khác có thể niệm đối tượng tôn kính của
mình để có giá trị tương tự.
2. Mong người thân được siêu thoát
Người
thân nên đến chùa cầu nguyện cho hương linh được siêu sinh thoát hóa.
Hoặc đứng trước di ảnh, bàn thờ người quá cố đừng bao giờ cầu nguyện họ
trở về nhà. Theo Phật giáo, không người chết nào ăn được thực phẩm cúng,
nên đừng cúng các món “ruột” cho người quá cố, theo cách lúc còn sống
thèm cái gì thì khi mất cúng cái đó. Điều cần thiết là cúng các thời
kinh dạy về nguyên lý vô thường, vô ngã, về qui luật sanh tử không ai có
thể tránh khỏi, để hương linh thực tập tái sinh.
Thông
thường, khi người chết còn bất kỳ nỗi niềm nào chưa được an tâm không
nhắm mắt lúc chết. Đây là phản ứng cơ học tự nhiên của cơ thể, cũng
giống như người suy nghĩ nhiều sẽ làm cho mắt và não hoạt động, gây mất
ngủ nhiều chừng đó. Phải giúp người chết rũ bỏ mọi chấp mắc thì họ mới
nhẹ nhàng tái sinh được.
Phải
nguyện cầu bằng lòng chí thành và lặp lại nhiều lần để giúp người quá
cố phóng thích được cái gút chấp mắc. Di chúc của người quá cố lúc cuối
đời cần được tôn trọng, nhằm giúp hương linh giải phóng các ức chế tâm
lý.
3. Gieo trồng công đức, phước báu
Thân
bằng quyến thuộc nên nghi thức tống táng đơn giản nhưng có giá trị tâm
linh hỗ trợ cho tiến trình tái sinh của người chết. Người thân nên nhân
danh người quá cố khi làm các việc công đức và phước báu, rồi hồi hướng
cho người quá cố. Theo kinh Địa Tạng, người quá cố hưởng được 1/7 công
đức, do cộng hưởng nghiệp thiện từ người thân, đang khi người thân được
hưởng 6/7 do trực tiếp làm. Việc làm công đức cho người quá cố tốt nhất
là trong thời gian quàng linh cửu để người mất có thể trực tiếp cảm
nhận, hoan hỷ với các việc làm này.
Hy
vọng rằng mỗi chúng ta ý thức nhiều hơn về sự sống và cái chết như là
một qui luật, có thể giúp cho mình và người thân vượt qua được thách đố
lớn nhất trong cuộc đời, mà vốn chỉ là một điểm chấm trên tiến trình
sinh tử không bờ bến.
Ai sống được như thế thì sẽ rất thản nhiên và không có bất kỳ nỗi sợ hãi nào khống chế mình, nhờ đó đời sống trở nên có ý nghĩa.