Máy này nhằm giúp những người mắc bệnh nan y
không còn cơ hội chạy chữa, chỉ còn sống lại
những ngày tháng “chờ chết” trong đau đớn tột
cùng, chết theo ý nguyện của họ, một cái
chết “nhanh chóng, nhẹ nhàng”, hơn là phải
sống trong nỗi khổ đau giày vò triền
miên.
Sau chín năm thực hiện, Kevorkian đã giúp 130
bệnh nhân giã từ cuộc sống bằng “mercitron”.
Năm 1998, Jack Kevorkian gởi tới hãng truyền
hình CBS đoạn băng video quay cảnh thực
hiện cái chết cho bệnh nhân có tên Thomas
Youk, 52 tuổi, bị xơ hóa cơ trên, dưới sự
trợ giúp của ông. Sau đó, đoạn băng này được
phát trên truyền hình ABC News với sự chứng
kiến của 16 triệu người Mỹ, và rồi cả thế giới
bắt đầu biết đến một “công nghệ” mới trong
ngành y học: “công nghệ an tử”! Chính đoạn
băng video này đã làm bằng chứng kết án
Kevorkian tội “giết người cấp độ hai”, và
bị xử 10-25 năm tù.
Hôm 1-6 vừa qua, “bác sĩ tử thần” Jack Kevorkian
được tạm tha sau tám năm ngồi tù. Trong khoảng
thời gian tám năm đó, mặc dù Kevorkian
ngồi tù, nhưng việc làm của ông vẫn tiếp
tục, và chắc chắn sẽ còn tiếp tục trong
tương lai, không chỉ giới hạn trong lãnh
vực giết người của “mercitron”, mà cả trong
cuộc đấu tranh của những người, những tôn giáo
ủng hộ hoặc chống đối vấn đề an tử. Bằng chứng
là nhiều tôn giáo, không chỉ tại Mỹ, mà khắp
nơi trên thế giới, đã thẳng thừng tuyên bố
sẽ làm bằng mọi cách để việc an tử không
trở thành hợp pháp. Trong khi đó, dân
chúng bang Oregon, bang đầu tiên của nước Mỹ, đã
thông qua luật cho phép những người mắc bệnh nan
y không thể sống quá sáu tháng nữa được yêu
cầu bác sĩ hỗ trợ cho cái chết. Từ năm
1998 đến 2006, đã có 292 người Oregon chọn
cái chết này.
Rõ ràng, vấn đề an tử đã và đang trở thành mối
quan tâm của thời đại. Vấn đề trở nên thật “có
lý” khi một con người hoàn toàn có quyền lựa
chọn cho mình một cái chết “an lành” hơn
là phải sống trong đớn đau triền miên
không sao tránh được. Quả thật, có những
trường hợp, những căn bệnh, những cảnh
đời,… mà chỉ có cái chết mới là giải thoát - giải
thoát cho chính bản thân mình và cho cả người
thân bớt đi gánh nặng, lo âu! Do đó,
“mercitron” không chỉ được bệnh nhân chấp nhận
mà còn được “tri ân”. Nhưng cũng không ít
người từ chối, thậm chí chống đối, bởi nó quá
“tàn nhẫn” và “phi đạo đức”.
Vậy thì, trước thực trạng đó, đạo Phật vốn
nhìn cuộc đời như mộng, như huyễn, xem tử sanh
như trò huyễn hóa, hết thảy đều mộng mị, vô
thường, vô ngã… đối biện vấn đề an tử như thế
nào?
Hồi Phật còn tại thế, khi Ngài đang ngụ tại
Tỳ-xá-li (Vaiśāli), có một Tỳ-kheo bị bệnh
nặng, lâu ngày rồi mà điều trị không lành.
Thầy Tỳ-kheo nuôi bệnh nói với Tỳ-kheo bị bệnh
dai dẳng ấy rằng: “Tôi không thọ trì, đọc
tụng Kinh điển hay tư duy hành đạo gì được
hết. Hằng ngày phải đi đến nhà người ta
tìm kiếm những thức ăn, thức uống, thuốc
thang phù hợp với người bệnh khiến thiên
hạ đều chán ngấy tôi. Tôi không bệnh mà
cũng khổ sở chẳng kém”. Thầy Tỳ-kheo bệnh nói:
“Thế thì phải làm sao? Tôi cũng chán ngán nỗi
đớn đau này, không thể chịu đựng được nữa. Nếu
thầy giết tôi thì tốt lắm”. Tỳ-kheo nuôi
bệnh nói: “Thầy không nghe Thế Tôn chế
giới không được tự tay giết người hay
sao?”. Tỳ-kheo bệnh nói: “Nếu vậy thì thầy
vì tôi đi gọi giúp người cầm dao đến đây”.
Tỳ-kheo nuôi bệnh lại nói: “Thầy không nghe
Thế Tôn chế giới không được đi tìm người cầm
dao về giết người hay sao”. Tỳ-kheo bệnh nói:
“Thế thì thầy bảo phải làm sao?”. Tỳ-kheo nuôi
bệnh đáp: “Thầy chỉ cầu được sống không
muốn chết, chứ nếu muốn chết thì có thiếu
gì cách để chết”. Sau đó, Tỳ-kheo bị bệnh
vì không cần gì và khát khao gì nữa khi
phải chịu đớn đau quằn quại, khổ mình, khổ
người, nên đã tự sát ( Luật Ma-ha Tăng-kì, ĐTK/ĐCTT 22, n0 1425).
Đức Phật biết được sự việc ấy, Ngài cho gọi
thầy Tỳ-kheo nuôi bệnh đến và quở trách: “Ông
không từng nghe Như Lai dùng vô số phương tiện
khen ngợi những người sống phạm hạnh, có
thân từ ái, miệng từ ái, tâm từ ái, và
khuyên cúng dường cung cấp cho họ những
thứ cần thiết là gì? Nay vì sao ông lại ca
ngợi sự chết? Điều đó là phi pháp, phi luật,
không đúng lời ta dạy, không thể dùng việc này
để nuôi lớn thiện pháp”.
Đức Phật quở trách vị Tỳ-kheo nuôi bệnh đã tác
động Tỳ-kheo bị bệnh kia tìm đến cái chết (tức
gợi ý, khuyên bảo hoặc xúi giục người khác
nên tìm đến cái chết hơn là sống trong dày
vò khổ đau của bệnh tật, như trường hợp
an tử), cũng có nghĩa là đức Phật không
đồng tình việc tìm đến cái chết, dù trong
bất cứ trường hợp nào và bằng phương cách gì.
Trong giới luật của Phật giáo, tự mình sát hại,
bảo người khác sát hại, khen ngợi hay tán đồng
sự sát hại đều phạm trọng tội. Theo đó,
người tạo ra cổ máy “mercitron”, những người
đồng tình với việc làm này, kể cả bệnh
nhân, đều không phù hợp với tinh thần và
giới luật Phật giáo.
Đức Phật đã bằng vô số phương tiện để chỉ cho
chúng sanh thấy rằng, có được thân người là rất
khó, do đó được làm kiếp người là vô cùng
quý báu. Hãy thử tưởng tượng, dưới đáy Đại
dương có một con rùa mù sinh sống. Cứ một
ngàn năm nó nổi lên mặt nước một lần để
lấy không khí. Lần nọ, khi nó vừa nổi lên
thì đầu của nó chui lọt vào trong một bộng
cây đang dật dờ trôi trên mặt biển! Một
sự việc vô cùng hiếm có, nhưng được làm thân
người, theo Phật giáo, còn hiếm có hơn vậy nữa.
Thân người khó được như thế nhưng lại dễ mất,
bởi sự chi phối mạnh mẽ của định luật vô thường,
và một khi mất rồi thì khó có được trở lại.
Vì vậy, mạng sống của con người thật quý
giá biết bao. Đặc biệt, chỉ có làm kiếp
người, trong tấm thân thể hình hài này, dù
xấu hay đẹp, dù sang hay hèn, dù mạnh
khỏe hay ốm đau… nó cũng là phương tiện hay công
cụ duy nhất làm thuyền bè đưa ta vượt thoát
biển khổ đau sanh tử luân hồi. Trong các loài
chúng sanh, chỉ duy nhất chúng sanh làm
người mới có đầy đủ điều kiện tu tập pháp
giải thoát. Kinh điển ghi lại vô số những
pháp thoại của Đức Phật cảnh tỉnh chúng ta
hãy ý thức về sự vô thường của cuộc đời để
nỗ lực tu tập giải thoát không để mất cơ hội là
vậy. Hơn nữa, với giáo pháp của Phật, nếu chúng
ta thật lòng tu học, chắc chắn thành tựu
đạo quả, không những chỉ thoát khỏi kiếp
sống khổ đau hiện tại này, mà vĩnh viễn xa
lìa các nẻo khổ đau trong ba cõi, đời đời
sống an vui, giải thoát, dù thời gian tu
học chỉ còn lại một ngày, thậm chí chỉ còn
một hơi thở. Đức Phật khẳng định: “Nay Ta nói
cho các ông biết, trong hàng Thanh văn của Ta,
có người tâm ngay thẳng, không siểm trá, không
huyễn ngụy; Ta đã giáo hóa người này mười
năm. Do nhân duyên này, người ấy có thể
trong vòng trăm, ngàn, vạn năm chỉ một mực
hỷ lạc, tâm lạc, phần nhiều trụ thiền
định. Điều này chắc chắn là có.
“Lại nữa, thôi, không tính mười năm, mà chín
năm, tám năm, cho đến một năm, mười tháng,
chín tháng, cho đến một tháng; mười ngày, chín
ngày, cho đến một ngày một đêm, nếu đã được
Ta giáo hóa, thì đến sáng hôm sau họ có
thể tiến bộ vượt bực. Sáng sớm đã được
giáo hóa thì đến chiều tối, có thể tiến bộ
gấp bội. Vì nhân duyên này, nên trong
vòng trăm, ngàn, vạn năm chỉ một mực hỷ lạc, tâm
lạc, phần nhiều trụ thiền định, thành tựu
hai quả. Hoặc quả Tư-đà-hàm hay quả
A-na-hàm” (Kinh Tạp A-hàm).
Như vậy, bằng kiếp sống này, chúng ta có thể đạt
được giải thoát trong vòng hai mươi bốn giờ tu
học. Vậy tại sao chúng ta không tạo mọi
điều kiện cho bản thân mình, cho người
thân của mình được an vui mãi mãi mà chỉ
tìm đến an tử?
Chúng ta chỉ nhìn thấy được những nỗi khổ đau
của kiếp người do thiếu cơm, thiếu áo, thiếu
tiền, hay bệnh tật ốm đau… mà không thấy được
nỗi khổ đau lớn nhất của đời người là bị
nhận chìm trong dòng thác huyễn mộng của
cuộc đời, trôi lăn theo sáu nẻo luân hồi,
tử sanh vô tận. Một khi chưa vượt thoát
được dòng thác hư huyễn ấy thì sự tìm đến
cái chết vì nỗi khổ đau bệnh tật hiện tại nào có
ích chi, nếu không muốn nói đó là cách mở cửa đi
vào địa ngục. Vì thế, nhiệm vụ của người
Phật tử khi đối biện với cận kề cái chết,
hãy thực hành như lời Phật dạy:
“Nếu mình là một Phật tử trí tuệ, muốn đến chỗ
một Phật tử trí tuệ khác đang bị tật bệnh khốn
khổ, thì đem ba pháp an tâm này mà truyền
dạy cho họ; nói rằng: ‘Này bạn! Hãy thành
tựu lòng tin thanh tịnh bất hoại đối với
Phật, đối với Pháp, Tăng.’
“Sau khi đem ba pháp an tâm này truyền dạy xong,
lại nên hỏi rằng: ‘Bạn có quyến luyến cha mẹ
không?’ Nếu người kia có quyến luyến cha mẹ,
thì nên dạy buông xả và nên nói rằng:
‘Nếu bạn quyến luyến cha mẹ mà được sống,
thì đáng quyến luyến. Đã không do quyến
luyến mà được sống, thì quyến luyến làm gì?’ Nếu
người kia nói không có quyến luyến cha mẹ thì
nên tùy hỷ khuyến thiện và hỏi thêm rằng: ‘Đối
với vợ con, nô bộc, tiền của cùng mọi vật
bạn có quyến luyến không?’ Nếu nói quyến
luyến thì nên khuyên buông xả, như pháp xả
sự quyến luyến cha mẹ. Nếu nói không
quyến luyến, thì tùy hỷ khuyến thiện và hỏi nữa:
‘Đối với ngũ dục thế gian bạn có luyến tiếc
không?’ Nếu họ nói luyến tiếc, thì nên giải
thích là ngũ dục thế gian là chỗ xấu xa,
bất tịnh, bại hoại, hôi hám, không giống
như ngũ dục thắng diệu cõi trời. Hãy
khuyên kia lìa bỏ ngũ dục thế gian và quyết
mong ngũ dục cõi trời. Nếu người kia nói tâm đã
xa lìa ngũ dục thế gian và trước đã nghĩ đến dục
thắng diệu cõi trời, thì tùy hỷ khuyến
thiện và lại nói với họ rằng: ‘Ngũ dục
thắng diệu cõi trời, là pháp vô thường,
khổ, không, biến hoại. Chư Thiên cõi trời có
thân tướng thù thắng hơn ngũ dục cõi trời.’ Nếu
kia nói đã bỏ nghĩ đến dục cõi trời và chỉ nghĩ
đến thân tướng hơn ngũ dục, thì cũng tùy
hỷ khuyến thiện và lại nói với rằng: ‘Dục
của hữu thân cũng lại là pháp vô thường,
biến hoại, chỉ có sự an lạc của xuất ly,
là Niết-bàn với sự diệt tận của các hành.
Nhân giả nên lìa bỏ sự mê luyến nơi hữu thân,
mà nên vui cái vui Niết-bàn vắng lặng, tối
thượng, thù thắng” (Kinh Tạp A-hàm).
Đó là cách thăm bệnh và nuôi bệnh của người Phật
tử. Một cách tổng quát, khi có một người không
may mang bệnh nan y, chúng ta phải tìm mọi
cách để “khai thị” cho người đó thấy được
bản chất không thật, hư dối, tạm bợ của
cuộc đời như trăng nơi đáy nước, bóng mình
trong gương, như ánh lửa khí nhiệt bốc,
như tiếng vọng của lời gọi, như mây nổi trong
bầu trời, như đám bọt nước… và khuyên họ hãy
buông xả tất cả mọi tâm niệm chấp thủ cái tôi,
của tôi; hướng họ về cảnh giới an lành của
Tịnh độ A Di Đà, khuyên họ phát nguyện vãng
sanh về đó bằng cách niệm hay phát khởi ý
tưởng về Phật A Di Đà và cõi giới của
Ngài, thì không cần cổ máy “mercitrin”,
người mang bệnh nan y dù mấy, nếu thật sự không
qua khỏi, cũng nhẹ nhàng ra đi.
Tóm lại, đạo Phật không đồng tình với việc sử
dụng hệ thống “mercitron”, cũng không
níu kéo sự sống trong trạng thái nằm chờ chết,
mà bằng mọi cách, mọi phương pháp làm cho bệnh
nhân được “giác ngộ” trước khi chết. Và điều
này có được áp dụng hay không còn tùy
thuộc vào quá trình nhận thức và khả năng
“giác ngộ” của nhân loại về vấn đề sống
chết, cũng như về đạo Phật.
Thích nguyên Hùng