33 HỒNG DANH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT
* * *
AVA: có nghiã là khắp mọi nơi
LOKITA: có nghiã là nhìn thấy được khắp nơi
I’SVARA: có nghiã là vị chuá tể , bậc có quyền hành xử mọi việc một cách tự do.
AVALOKITE ‘SVARA: là vị Bồ Tát thực hành Trí tuệ Bát Nhã thâm sâu , quán sát đôí tượng Đương Thể Tức Không và không bị một chướng ngại bởi các yếu tố giả hợp tạo thành cái ảo tưởng của đương thể nên được gọi là Quán Tự Tại
Theo ý nghiã khác, vị Bồ Tát này quán
sát tất cả các Pháp tự do tự tại , tất cả công đức hợp với chúng sinh
khiến cho họ xa rời bể khổ đạt đến sự an vui phỉ lạc nên Ngài được xem
là “Bậc có uy lực xem xét và bảo hộ chúng sinh”, do đó Ngài có tên là Quán Tự Tại .
Một danh từ khác của Bồ Tát này là LOKE’ ‘SVARA trong đó LOKA là thế gian và I’SVARA là Thế Tôn. LOKE SVARA là vị Bồ Tát quán rõ các Pháp thế gian là huyễn hoá đồng thời điều dụng được toàn bộ Danh Pháp của thế
gian một cách vô ngại nên đạt quả Tự Tại .Lại nữa, do Ngài quán biết căn
cơ của chúng sinh nên sự giáo hóa được Tự tại. Vì vị Bồ Tát này có đầy
đủ BI TRÍ , LÝ SỰ vô ngại nên có tên là Quán Tự Tại
Do vị Bồ Tát này lấy bản nguyện từ bi cứu giúp chúng sinh nên có tên là Đại Bi Tâm Bồ Tát (Mahà Karunika).
Do cầm hoa sen là biểu tượng cho trí thanh tịnh hay diệu pháp nên có tên là Liên Hoa Thủ Bồ Tát (Padma Pani).
Do quán sát và thực hành Pháp môn Không Hai nên có tên là Bất Nhị Bồ Tát
Do hành trì năm Pháp quán (Chân quán, Thanh tịnh quán, Quảng đại trí tuệ quán, Bi quán, Từ quán)
mà hiện rõ ánh sáng thanh tịnh vô cấu nhiễm tức là ánh sáng của trí tuệ
hay phá các ám tối phiền não nhờ đó mà hàng phục được Bản tâm cho nên
mới có thể đem trí quang minh mà soi khắp các cõi để cứu khổ cho chúng sinh. Đấy là biểu thị cho sự diệu dụng, lợi tha, do vậy Ngài có tên là Quang Âm Bồ Tát.
Do công hạnh quán sát tất cả các tiếng kêu cứu của mọi chúng sinh trong cõi Ta Bà để kịp thời cứu độ nên Ngài có tên Quán Thế Âm Bồ Tát .
Do luôn hành trì công đức của Trí tuệ Bát Nhã nên có tên là Bát Nhã Bồ Tát (Prajna bodhisatva)
Do luôn đem lại sự không sợ hãi và ban cho sự an ổn đến các chúng sinh nên có tên là Thí Vô Úy giả (AbhayAmdàda)
Trong bản Phạn của Kinh Pháp Hoa
có ghi: “Này thiện nam tử! Vị Quán Tự Tại Bồ Tát Ma ha tát ấy ban sự
không sợ hãi đến các chúng sinh đang lo lắng. Vì vậy trong thế giới Ta Bà này, vị ấy là Người ban cho sự không sợ hãi (Thí Vô Uy giả)
Do dùng ba Pháp Văn, Tư, Tu làm cho nhĩ căn viên thông nên có tên là Quán Thế Âm Bồ tát .
Trong Kinh Lăng Nghiêm quyển 6 có ghi: “
Về vô số kiếp xa xưa, có Đức Phật ra đời hiệu Quán Âm Như Lai. Tôi đến
trước Đức Phật mà phát tâm Bồ đề rộng lớn. Đức Phật dạy tôi ba Pháp Văn, Tư, Tu có nghĩa là nghe lời giảng dạy, suy nghĩ kỹ lưỡng về đạo lý và theo đó thực hành để
vào TÂm ma đề (Samadhi) tức là nơi vắng vẻ rốt ráo. Đức Phật khen tôi
chứng được Pháp môn Viên Thông, liền ngay trong đại hội thọ ký cho tôi
và ban hiệu là Quán Âm “
Trong Kinh A Di Đà quyển thượng, Kinh Vô lượng thọ quyển thượng và Kinh Quán Âm thọ ký đều dùng hồng danh Thánh Quán Thế Âm để chỉ vị Nhất Bổ Xứ Bồ Tát hầu cận Đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc tại Tây phương của cõi Ta Bà. Vị Bồ Tát này thường phụ giúp Đức Phật giáo hóa chúng sinh trong cõi Tịnh độ ấy .
Theo sự ghi nhận của Kinh Quán Âm
Tam Muội và Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi thì Quán Âm Bồ Tát cò sức
uy thần chẳng thể tư nghị, ở vô lượng kiếp trước đã thành Phật rồi, hiệu là Chính Pháp Minh Như Lai. Nay vì nguyện lực Đại Bi mới thị hiện thân Bồ Tát để cứu khổ chúng sinh .
Trong Kinh Pháp Hoa quyển 7 và
Kinh Đại Nhật Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm quyển 6 có ghi: “Vị Bồ Tát này ở
khắp mọi nơi. Mọi đất nước. Hiện đủ loại thân tướng, ứng với căn cơ của
chúng sinh để hóa độ cho nên còn gọi là 33 Ứng Hoá thân Bồ Tát. Các thân đó là :
A. BA VỊ ĐỊA THÁNH :
1) Phật thân (Buddha)
2) Bích Chi Phật thân (Pratyeka Buddha)
3) Thanh Văn thân (Sravaka)
B. SÁU LOẠI CỦA THIÊN GIỚI:
1) Đại Phạm Vương thân (Mahà Brahman)
2) Đế Thích thân (‘Sakra – DevanÂm – Indra)
3) Tự tại Thiên thân (I’svara)
4) Đại Tự tại Thiên thân (Mahà‘svara)
5) Thiên đại tướng quân thân (Senapati)
6) Tỳ Sa Môn thân (Vai’sravana)
C. NĂM DÒNG TỘC CỦA NGOẠI ĐẠO:
1) Tiểu Vương thân (Hinarya)
2) Trưởng giả thân (Grihapati)
3) Cư sĩ thân (Kulapati)
4) Tế quan thân (Sasaka)
5) Bà la môn thân (Brahman)
D. BỐN CHỦNG CỦA ĐẠO NỘI:
1) Tỳ kheo thân (Busku).
2) Tỳ kheo ni thân (Buksuni).
3) Ưu bà tắc thân (Upsaka).
4) Ưu bà di thân (Upsika).
E. SÁU CẤP CỦA PHỤ NỮ – TRẺ CON :
1) Trưởng giả phụ nữ thân (Grihapati bharya).
2) Cư sĩ phụ nữ thân (Kulapati bharya).
3) Tề quan phụ nữ thân (Sasaka bharya).
4) Bà la môn phụ nữ thân (Brahma bharya).
5) Đồng nÂm thân (Putra).
6) Đồng nữ thân (Kanya).
F . TÁM BỘ TRỜI RỒNG :
1) Thiên thân (Deva).
2) Long thân (Naga).
3) A tu la thân (Asura).
4) Dạ xoa thân (Yaska).
5) Càn sát bà thân (Gandharva).
6) Ca lâu la thân (Garudha).
7) Khấn na la thân (Kimnara).
Ma hầu la già thân (Mahoraga).
G. MỘT THÂN THẦN:
Chấp Kim Cương thân (Vajrapàni).
Trong Ma Ha Chỉ Quán quyển 2 phần thượng có ghi 6 vị Quán Âm là các Hóa Tôn của lục đạo.
1) Đại Bi Quán Thế Âm: Phá 3 chướng của nẻo Địa ngục.
2) Đại Từ Quán Thế Âm: Phá 3 chướng của nẻo Ngã qủy.
3) Sư Tử Vô Uy Quán Thế Âm: Phá 3 chướng của nẻo Súc sinh.
4) Đại Quang Phổ Chiếu Quán Thế Âm: Phá 3 chướng của nẻo Tu la.
5) Thiên Nhân Trượng Phu Quán Thế Âm: Phá 3 chướng của nẻo Nhân gian.
6) Đại Phạm Tấn Tật Quán Thế Âm: Phá 3 chướng của nẻo Thiên giới
Hệ Thai Mật của Nhật Bản nhận định 6 vị Quán Âm là:
1) Hóa Tôn địa ngục làThánh Quán Âm
2) Hóa Tôn Ngã quỷ là Thiên Thủ Quán Âm
3) Hóa Tôn Súc sinh là Mã Đầu Quán Âm
4) Hóa Tôn Tu la là Thập Nhất Diện Quán Âm
5) Hóa Tôn Nhân gian là Bất Không Quyến Sách Quán Âm
6) Hóa Tôn Thiên giới là Như Ý Luân Quán Âm
Hệ Đông Mật của Nhật Bản thì thay Bất Không Quyến Sách Quán Âm bằng Chuẩn Đề Quán Âm.
Hệ khác thì gộp chung các vị lại thành 7 vị Quán Âm
Trong Bất Không Quyến Sách thần biến
chân ngôn còn đề xuất thêm các vị Quán Âm nữa là: Tứ Diện Đại Bi Quán
Âm, Trừ Bạt Nạn Tiên Quán Âm, Bá Nga Mục Khư Quán Âm, Đại Phạm Thân
Tướng Quán Âm, Quảng Đại Minh Vương Câu Xả Quán Âm.
Trong các Kinh khác còn ghi thêm một số Hồng danh nữa là: Hiện Âm Thanh Bồ Tát, Khuy Âm Bồ Tát, Viên Thông Đại Lực Sĩ…
Trong Kinh Ngũ Bách Danh đề cử 500 danh hiệu Quán Âm.
Trong Chư Tôn chân ngôn nghĩa Sao có ghi tên 15 vị Quán Âm.
Sau này lại có 25 vị Quán Âm và 33 vị
Quán Âm… Hầu hết các bộ Quán Âm này thường không có căn cứ ở Kinh quỹ mà
dựa vào tư tưởng hóa độ Lục đạo với tư tưởng 33 Ứng Hóa thân pha lẫn
với tín ngưỡng dân tộc ở Trung Hoa, Nhật bản mà tạo ra.
Hồng danh 33 vị Quán Âm là:
1) Dương Liễu Quán Âm: còn
có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, bổn nguyện của Ngài là bạt trừ
cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh, vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn
nên Ngài cầm cành dương. Dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn
hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
2) Long Đầu Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trên lưng rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế
Âm Bồ tát; Long Vương đến mang mây mưa sấm chớp chiếu diệu khắp trời
đất, thấm nhuần muôn vật, tất cả đều tán thán uy lực của Long vương.
Ngài hiện thân ngồi kết già trên mình rồng thuyết pháp cho chúng sanh.
3) Trì Kinh Quán Âm: còn
gọi là Thanh Văn Quán Âm. Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai
ngộ mà xuất gia. “người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền
hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện
sự an tường.
4) Viên Quang Quán Âm: đây là Quán Thế
Âm Bồ tát lòng từ ái viên mãn, biểu trưng bằng ánh quang minh quanh
thân. “sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai
khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp.
5) Du Hý Quán Âm: Quán Thế
Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời
gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài
ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh.
6) Bạch Y Quán Âm: còn
gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu. Toàn thân Ngài mặc y trắng, ngồi kết già
trên hoa sen trắng, đầu đội khăn, tay trái cầm hoa sen, tay phải kết dữ
nguyện ấn. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người
lễ bái Ngài để cầu tiêu tai, trường thọ.
7) Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện tọa ngọa trên lá sen. Ngài hiện thân Tiểu Vương trong phẩm Phổ Môn, để thí dụ cho thân Tiểu Vương tôn quý ngồi trên lá sen. Quán Thế
Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi
nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh.
Lang Kiến Quán Âm: còn
gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị
sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối
từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi nhìn dòng thác, nhưng tâm tư Ngài như tinh thần của dòng nước.
9) Thí Dược Quán Âm: ngoài việc trị bệnh khổ của chúng sanh về thân và tâm, Quán Thế
Âm Bồ tát còn ban bố cho chúng sanh lương dược. Bài kệ trong phẩm Phổ
Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ.
10) Ngư Lam Quán Âm: là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá và nhánh lá. Do Ngài thấy con sông không có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông.
11) Đức Vương Quán Âm: trong
phẩm Phổ Môn chép rằng: “người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát,
Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ
cõi trời sắc giới, công đức rất lớn, nên còn gọi là Đức Vương. Hình
tượng thông thường trong nhân gian là đầu đội bảo quan, ngồi kết già,
tay phải cầm nhánh lá, tay trái để trên đầu gối.
12) Thủy Nguyệt Quán Âm: tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát trong Thai Tạng Mạn trà la, mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cang, Quán Thế
Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng
của Ngài ngồi kết già trên hoa sen nổi trong đại hải, tay trái cầm hoa
sen, tay phải kết thí vô úy ấn, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng
nước có hình mặt trăng nên gọi là Thủy Nguyệt Quán Âm.
13) Nhất Diệp Quán Âm: nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn. Có thể thấy hình tượng Quán Thế
Âm Bồ tát hiện trên nước. Ngài ngồi trên hoa sen nổi trên mặt nước, ngắm
nhìn nước tâm suy nghĩ sâu sắc đến những nơi tối tăm không ánh sáng
(địa ngục).
14) Thanh Cảnh Quán Âm: có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
15) Uy Đức Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để
chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “người đáng
dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên
Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy
đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài là tay trái cầm
kim cang xử biểu hiện uy thế để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi trên bệ đá.
16) Diên Mạng Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát bảo hộ thọ mạng chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở
hại nơi bổn nhơn”. Có thể tiêu trừ chú thuật nguyền rủa và độc dược thêm
tuổi thọ, cho nên gọi là Diên Mạng Quán Âm. Ngài đội bảo quan, mặc
Thiên y, anh lạc trang nghiêm, 20 cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh.
17) Chúng Bảo Quán Âm: là hình tượng Quán Thế
Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Nếu có chúng sanh vì tìm cầu báu vật
như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… vào trong
thâm sơn đại hải, giả sử gió lớn thổi trôi dạt đến nước quỷ La Sát, nếu
có một người xưng danh hiệu Ngài, thì đều được giải thoát. Hình tượng
của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
18) Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế
Âm Bồ tát ngồi trong hang đá. phẩm Phổ môn chép: “Rắn độc cùng bò cạp,
hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường
trong hang động có nhiều chướng khí và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy
hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Quán Thế Âm Bồ tát hiệp chưởng tĩnh tọa trên hoa sen, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng.
19) Năng Tĩnh Quán Âm: Quán Thế
Âm Bồ tát cứu giúp thủ hộ những người gặp nạn được an ổn. Hoặc trôi dạt
biển lớn, các nạn quỷ cá rồng, do sức niệm Quán Âm, sóng mòi chẳng chìm
đặng. Quán Thế Âm Bồ tát là thần thủ hộ trên biển. Hình tượng của Ngài biểu hiện tướng tĩnh lặng.
20) A Nậu Quán Âm: Quán Thế
Âm Bồ tát ngồi trên bệ đá quán sát mọi động tĩnh của đại hải. Thệ nguyện
của Ngài như bài kệ:“ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ
rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu
búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng,
tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua
tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.
21) Vô Úy Quán Âm: Hình
tượng của Ngài rất đặc thù có ba mắt bốn tay, ngồi trên lưng sư tử
trắng, đội bảo quan, hai tay bên phải, một tay cầm hoa sen trắng, một
tay cầm con chim cát tường trắng; hai tay bên trái, một tay cầm pháp khí
hình con phượng 3 đầu, một tay cầm con cá. Khắp thân có ánh sáng, mặc
thiên y đeo anh lạc, diên mạo rất đoan nghiêm.
22) Diệp Y Quán Âm: Ngài
hiện thân Thiên nữ, đội bảo quan, trên bảo quan có hóa thân Vô Lượng
Thọ Phật. Quanh thân có vòng lửa, ánh sáng trong suốt khắp thân. Có bốn
tay, hai tay bên phải, một tay cầm quả cát tường để trước ngực, một tay
kết thí nguyện ấn; hai tay bên trái, một tay cầm rìu, một tay cầm sợi
dây, ngồi trên hoa sen. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu
nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc. 22) Lưu Ly Quán Âm.
23) Lưu Ly Quán Âm: Tương truyền vào thời Bắc Ngụy, Tôn Kính Đức trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để
tôn thờ. Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn
dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh “Diên Mạng Thập Cú Quán Âm”, lúc tử
hình ông ba lần chém nhưng không chút thương tích, nên ông được tha
chết. Vì phụng thờ lễ bái Quán Thế Âm Bồ tát mà đầu ông còn hiện ba vết sẹo. Hình tượng Ngài cầm bình lưu ly xanh, đứng trên cánh hoa sen du hóa trên mặt nước.
24) Đa La Quán Âm: dùng vật báu vô giá trang nghiêm thân để
trừ khổ não cho chúng sanh, tất cả chúng sanh vui ưa vào pháp giới chư
Phật. Ngài hiện thân người con gái, tướng mạo từ bi, mặc y trắng, hai
tay hiệp chưởng cầm hoa sen xanh; quanh thân có hào quang thanh tịnh,
đầu búi tóc. Trước ngực đeo anh lạc ngồi trên bệ đá ngắm nhìn chúng
sanh.
25) Cáp Lỵ Quán Âm: Vua
Đường Văn Tông thích ăn thịt con hàu, một ngày nọ vua bắt được một con
sò lớn, vua dùng dao mổ hoài mà không mở được vỏ sò, ông mới đốt hương
cầu nguyện, con sò hóa thành Quán Âm Đại Sĩ. Nhà Vua triệu vị thiền sư
đến nói: người đáng dùng thân đặng được độ, thì hiện thân này mà nói
pháp. Hiện thân Đại Sĩ là việc hy hữu không tin hay sao. Nhà vua rất vui
liền ban chiếu chùa chiền trong khắp thiên hạ tạo tượng Đại Sĩ để tôn thờ. Đây là sự tích của Cáp Lỵ Quán Âm.
26) Lục Thời Quán Âm: là vị Bồ tát ngày đêm từ bi thủ hộ chúng sanh. Thời xưa miền Bắc Ấn Độ một ngày đêm chia làm sáu thời, một năm cũng chia làm sáu thời là: “nắng ít, nắng nhiều, mưa, mát, lạnh ít, lạnh nhiều”; Do đó mà nói thành “Quán Thế Âm thường trông chúng sanh”.
27) Phổ Bi Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế
giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện
thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của
Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán
Âm.
28) Mã Lang Phụ Quán Âm: Đời
Đường có một mỹ nữ mà những người con trai đều tranh nhau cưới, nàng
nói trong một đêm nếu đọc thuộc được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng, đêm ấy có hai mươi người thuộc, lại một đêm tụng trọn bộ kinh Kim Cang cũng sẽ lấy làm chồng,
đêm ấy còn lại mười người, sau ba ngày có thể tụng thuộc Kinh Pháp Hoa
thì sẽ kết ước. Trong số đó chỉ có người thanh niên họ Mã được chọn.
Ngày kết hôn người con gái bỗng dưng chết biến thành ánh sáng bay lên không trung biến mất. Hình tượng Ngài cầm quyển Kinh Pháp Hoa và cây gậy có hình đầu lâu.
29) Hiệp Chưởng Quán Âm: là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu thiện tích đức. Nếu có chúng sanh nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát thì liền được ly dục, nếu người nhiều sân nhuế, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát thì liền được ly sân, nếu người nhiều ngu si thường cung kính niệm Quán Thế
Âm Bồ tát, thì liền được ly si.Tâm không vô niệm thì liền hiển hiện cảnh
giới tam muội. Ngài mặc y trắng chấp tay ngồi trên bệ đá.
30) Nhất Như Quán Âm: Quán Thế
Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm
Phổ Môn chép: “mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm
Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị;
Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp
giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
31) Bất Nhị Quán Âm: là biểu tượng bổn và tích bất nhị của Quán Thế Âm. Phẩm Phổ Môn chép: “người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói pháp. Quán Thế
Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì bổn và tích
đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài ngồi trên
bệ đá hai tay chấp trì kim cang xử.
32) Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa để
biểu trưng cho bổn thệ, vì cầm hoa sen đã nở hay chưa nở nên còn gọi là
liên hoa thủ. Vì hoa sen có nhiều nhơn duyên đặc thù nên cũng lấy hoa
sen làm đài. Hình tượng Quán Âm đứng trên lá sen, hai tay cầm hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm.
33) Sái Thủy Quán Âm: là Quán Thế
Âm Bồ tát đứng trên tường vân tay cầm chén nước rưới xuống. Lòng bi răn
như sấm, ý từ diệu dường mây, như mưa pháp cam lộ, dứt trừ lửa phiền
não. Sái thủy là rưới một loại nước thơm, là pháp tu tụng niệm gia trì làm cho thanh tịnh. Đây là bổn thệ của Quán Thế Âm để khai ngộ Phật tánh của tất cả chúng sanh.
Trong hệ thống Thuần Mật của Mật giáo thì Đức Quán Thế Âm Bồ Tát được nhận định qua nhiều hình tượng và danh từ khác nhau.
Căn cứ vào Kim Cương Giới Man Đà La (Vajra dhàtu mandala) thì vị Bồ Tát này được nhận biết dưới danh hiệu Kim Cương Pháp Bồ Tát (vajra
dharma bodhisatva) là một trong bốn vị Bồ Tát thân cận của Đức Phật A
DI ĐÀ ở phương Tây. Tôn này được sinh ra từ trí tự tại vô nhiễm của tất
cả Như Lai nên nói rằng vị Bồ Tát này và Đức Phật A DI ĐÀ nguyên chỉ
khác nhau về Nhân Quả, hễ tìm được Bản Giác tức đồng với Vô Lượng Thọ
xong do Bản Thệ nên thị hiện thành Bồ Tát Đại Bi.
Tâm chú của Tôn này là: “OM VAJRA DHARMA HRÌH “và câu xưng tán là: “Nam
mô Nhất Thiết Như Lai Trí Tuệ Môn Kim Cương Pháp Bồ Tát đẳng xuất sinh
tận hư không biến pháp giới nhất thiết Bà La Mật Bồ Tát Ma Ha Tát“.
Trong Nhiếp Chân Thật kinh phần thượng thì ghi nhận Tôn này là Kim Cương Nhãn Bồ Tát (Vajra Caksu Bodhisatva).
Căn cứ vào Thai Tạng Giới Man Đà La (Garbha dhàtu mandala) thì vị Bồ tát này được an vị trong các viện : Trung Đài bát diệp viện, Biến Tri viện, Quán Âm viện,
Thích Ca viện, Văn Thù viện , Hư Không
Tạng viện, Tô Tất Địa viện. Tùy theo vị trí được an lập, vị Bồ Tát này
biểu thị cho các phẩm Đức khác nhau.
+ Trong Trung đài bát diệp Viện: Vị Bồ Tát này biểu thị cho Tịnh Đức là Đức thứ tư trong 4 Đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh . Hoặc biểu thị cho hạnh chứng ngộ Bồ Đề tâm là một trong 4 hạnh của Như Lai là Phát Tâm Bồ Đề, Tĩnh Tâm Bồ đề, Chứng Ngộ Tâm Bồ Đề, Nhập Tâm Bồ Đề.
+ Trong Biến Tri Viện: Vị Bồ tát này được nhận biết qua danh hiệu Chuẩn Đề Phật Mẫu biểu thị cho Tĩnh Đức và là Mẫu của tất cả các Tôn thuộc Liên Hoa Bộ trong PHẬT BỘ.
+ Tại Quán Âm Viện: Vị Bồ Tát này biểu thị cho Đức Giải Thoát là một trong 3 Đức của Niết Bàn là Pháp thân đức , Bát nhã đức, Giải thoát đức.
+ Trong Văn Thù Viện: Vị bồ Tát này biểu thị cho Đức Quyền Trí
+ Trong Thích Ca Viện: Vị Bồ Tát này biểu thị cho Đức Chân Tướng
+ Trong Hư Không Tạng Viện: Vị Bồ Tát này được nhận biết qua danh hiệu Thiên Thủ Quán Thế Âm, biểu thị cho Đức Pháp Tài.
+ Trong Tô Tất Địa Viện : Vị Bồ Tát này được nhận biết qua danh hiệu Thập Nhất Diện Quán Thế Âm, biểu thị cho dụng của TỪ BI.
Ngoài ra trong Thai Tạng Giới Man Đà La còn liệt kê thêm nhiều vị Quán Âm tu trì Pháp Quán Âm.
* Trong Quán Âm Viện :
- Bạch Y Quán Âm (
Pàndura Vàsinì ) Tôn này trú ở tâm Bồ Đề trắng tịnh nên xưng là Đại
Bạch Y Quán Âm, Bạch Xứ Tôn Bồ Tát, Bạch xứ Quán Âm, Bạch Y Quán Tự Tại
Mẫu. Tôn này biểu thị cho BỘ MẪU của Liên Hoa Bộ
hay sinh ra các Tôn thuộc Liên Hoa Bộ. Tôn tượng có một mặt hai tay. Tay
phải duỗi các ngón ngửa ra hướng xuống dưới thành Ấn Dữ Nguyện, tay trái co lại cầm cành hoa sen.
Ngoài ra còn có tượng 3 mặt 6 tay, phần
nhiều là tượng nuôi con nít nên là đối tượng của những người cầu con. Do
đó Tôn này còn có tên là Tống Tử Quan Âm .
- Bạch Thân Quán Tự Tại (
‘sveta bhagavatì ) Tôn này biểu thị cho sự tu tập Đại Bi trắng tịnh.Tay
trái cầm hoa sen biểu thị cho Đức thanh tịnh xưa nay, dùng sự tu hành thành tựu Đức ấy mà hiển Phật trí.Tay phải để ngang vai biểu thị cho sự phổ hóa chúng sinh.
- Cát Tường đại Minh Quán Tự Tại (‘Sri
mahà vidya) Tôn này biểu thị cho sự chẳng nhiễm sinh tử, trong sạch
không nhơ. Tức dùng Pháp môn thanh tịnh vô nhiễm phá trừ sự ưu ám của
chúng sinh. Tay trái cầm hoa sen biểu thị cho sự thanh tịnh vô cấu
nhiễm, tay phải dựng đứng chưởng co 3 ngón vô danh, giữa, trỏ sao cho ngón trỏ vịn vào đốt thứ nhất của ngón cái, ngón út duỗi thẳng chỉ lên trên.
- Đại Tùy Cầu Bồ Tát (Mahà pratisàra) Tôn này là thân biến hóa của Quán Thế Âm, thường tùy theo sự nguyện cầu của chúng sinh mà ban cho đầy đủ bản nguyện, do vậy mà có tên là Đại Tùy Cầu.
Tôn hình có một mặt 8 tay, ngồi bán già
trên tòa sen. Bên trái : Tay thứ nhứt cầm hoa sen , bên trên hoa sen có
bánh xe rực lửa, tay thứ hai cầm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, tay thứ ba
cầm cây lộng Như Ý, tay thứ tư cầm vòng dây. Bên phải : Tay thứ nhất
ngửa chưởng cầm Chày Tâm Cổ đặt nằm ngang, tay thứ hai cầm cây kích có 3 lưỡi, tay thứ ba cầm cây búa, tay thứ tư cầm cây kiếm.
- Mã Đầu Quán Âm (Hayagriva) Tôn này là một hiện thân của Quán Thế
Âm với hình dáng to lớn , tóc dựng đứng lên, đôi mắt đầy phẫn nộ. Tôn
tượng có 3 mặt, mỗi mặt có 3 mắt. Hiện tướng lộ 2 nanh cong lên hai bên
mép miệng. Trên đỉnh trán của mặt chính có hình vị Hóa Phật, và đội đầu
con ngựa ngay giữa đỉnh. Do đó Tôn này có tên là Quán Âm Đầu Ngựa (Mã Đầu Quán Âm).
Tôn này có đầy đủ tính cách
của một vị Minh Vương nên được kể vào 8 đại Minh Vương và gọi là Mã Đầu
Minh Vương. Tôn này do nhân Đại Bi nên không trú ở Niết Bàn mà trụ trong
cảnh giới Vô minh để đoạn tận các nẻo ác. Nói cách khác, Quán Thế Âm hiện thân Mã Đầu là để tượng trưng cho sức tinh tiến của các vị Bồ Tát không bao giờ ngưng nghỉ ở bất cứ chỗ nào trong vòng sinh tử, cương quyết anh dũng đánh dẹp vô minh khổ não chẳng kể đến thân mệnh mình. Vì thế Tôn này có mật hiệu là Tấn Tốc Kim Cương.
- Bất Không Quyến Sách Quán Âm (Amogha pa’sa) Tôn này do tâm nguyện Bất Không nên xưng là Bất Không. Quyến Sách tượng trưng cho lưới bắt chim dùng cứu độ tất cả chúng sinh trong Đại Thiên thế giới .
Theo Ý nghĩa khác, Bất Không là Chuẩn, Quyến Sách là Đề và Chuẩn Đề (Cundhe) tượng trưng cho tâm tính thanh tịnh (‘suddhe) nên ba danh tự Bất Không Quyến Sách, Chuẩn Đề và Thanh Tịnh Quán Âm bằng Chuẩn Đề quán Âm.
Tôn tượng có 3 mặt 4 tay, mỗi mặt có 3
mắt. Mặt chính diện màu thịt, mặt bên phải màu xanh, mặt bên trái màu
đen. Ba mặt biểu thị cho 3 Đức. Bên trái: Tay thứ nhất cầm hoa sen, tay thứ hai cầm dây lụa, bên phải: tay thứ nhất cầm tràng hạt, tay thứ hai cầm bình Quân Trì.
- Như Ý Luân Quán Âm (Cinta mani chakra)
Cinta: Là Như ý bảo châu
Chakra: Là pháp luân
Tôn này trụ ở Như ý bảo châu Tâm Muội , chuyển Pháp luân cứu độ chúng sinh trong lục đạo thoát khỏi khổ não và hay làm cho tất cả chúng sinh được thành tựu ước nguyện , vì thế Ngài được hợp xưng là Cứu Khổ Cứu nạn Cứu Thế Bồ Tát .
Tôn này có 6 tay, toàn thân màu vàng,
trên đầu kết báu quanh đỉnh tóc biều thị sự trang nghiêm. Trong mão có
Đức Phật A Di Đà trụ tướng thuyết pháp. Bên phải: tay thứ nhất nâng mặt làm dạng suy tư biểu thị cho sự mẫn niệm chúng hữu tình, tay thứ hai cầm báu Như ý biểu thị cho sự làm mãn túc ước nguyện của tất cả chúng sinh . Tay thứ ba cầm Tràng hạt biểu thị cho sự cứu khổ chúng sinh. Bên trái:Tay thứ nhất duỗi thẳng xuống ấn núi Quang Minh biểu thị cho sự khiến chúng sinh chẳng dao động.
Tín hạnh, tay thứ hai cầm hoa sen biểu
thị cho sự hay trừ các phi pháp, tay thứ ba cầm bánh xe biểu thị cho sự
chuyển pháp Vô Thượng.
Tôn này thường dạo chơi trong lục đạo, dùng phương tiện Đại Bi giải trừ các khổ não cho chúng sinh.
- Bi Diệp Y Quán Âm (PàlàsÂmbarì) Tôn này là một thân biến hóa của Quán Thế
Âm, chuyên trừ các loại bệnh tật, cầu trường thọ, đảo bệnh, an trấn
phòng ốc. Tôn này có 2 tay :Tay trái cầm dây lụa, tay phải cầm hoa sen
mới nở.
- Đa La Bồ tát (Tàrà) Tàrà là con mắt hay con mắt tĩnh diệu. Tôn này là một thân Hóa hiện của Quán Thế
Âm được sinh ra bởi ánh quang minh phóng ra từ mắt của ngài. Tôn này
luôn nhìn tất cả chúng sinh giống như bà mẹ hiền theo dõi chăm sóc con
thơ. Mục đích của Ngài là cứu độ chúng sinh ra khỏi biển khổ sinh tử. Do
chủ về hai Đức đại Bi và hàng phục nên Tôn này được xem là Phật Mẫu của Liên Hoa Bộ.
Tôn hình có hai tay chắp lại để ngang ngực , trên đỉnh đầu hiện Đức Phật A Di Đà đang trụ tướng thuyết pháp.
Một Hóa thân của Thánh Mẫu Tàrà là Tỳ Lý Câu Đê Bồ Tát (Bhrkuti) Tôn này là chủ về sự kính vâng theo Pháp Cứu độ thanh tịnh và nhằm chặn đứng sự tàn phá của trí Đại Không để
hoàn thiện phước báu diệu hữu. Tôn hình có búi tóc hình mũ giống như đất
giữ gìn vạn vật, chung quanh kết bởi các báu, chính giữa có hình Đức
Phật A Di Đà trụ tướng thuyết pháp . Điều này biểu thị cho sự kính vâng
theo Trí Tuệ Phổ Môn của Như Lai để hoàn thiện phước đức .Thân hình có 4 tay. Bên phải: Tay thứ nhất rũ xuống thành An Dữ Nguyện , tay thứ hai co ngửa lên cầm Tràng hạt. Bên trái: tay thứ nhất co lên cầm hoa sen ,tay thứ hai cầm Bình Quân Trì.
- Thủy Cát Tường Bồ Tát (Arya
Ryudaka’ sri) Tôn này được xem là quyến thuộc của Đa La Bồ Tát. Tôn
hình màu vàng lợt, tay trái dựng đứng bàn tay, co 3 ngón: cái, trỏ, giữa
lại, cầm hoa sen mới nở biểu thị cho phương tiện Đại Bi hay làm cho muôn điều lành tốt đẹp thêm lên.Tay phải duỗi các ngón xuống dưới thành ấn Dữ Nguyện biểu thị cho sự làm thỏa mãn các nguyện của chúng sinh.
* Trong Hư Không Tạng Viện
- Thiên Thủ Quán Âm Bồ tát (Sahasra bhuja avalokite’ svara) Tôn hình màu vàng, có 27 mặt, 1000 tay mỗi tay có một con mắt nên gọi là Thiên Thủ Thiên Nhãn.
Ngàn tay ngàn mắt tượng trưng cho phạm vi cứu độ của Ngài với phương
pháp rộng lớn vô biên. Thật ra tôn tượng chỉ có 42 tay, hai tay chính
giữa chắp lại, hai bên phải trái mỗi bên có 20 tay. 40 tay này mỗi tay
cứu độ 25 giới chúng sinh nên tổng cộng là 1000 tay. Quyến thuộc của Tôn
này là Bà tẩu Tiên Nhân, Phong Thần, Lôi Thần với chúng Bát bộ.
- Phẫn Nộ Câu Quán Tự Tại Bồ Tát (Amogha
krodha jnã’ sa Raja) Tôn hình có 3 mặt 4 tay, mỗi mặt có 3 mắt, trên
trái mỗi mặt có một vị Hóa Phật đỉnh đầu có một vị Bồ Tát ngồi kiết già,
hai tay cầm hai cây kiếm. Bên phải: Tay thứ nhất co lên cầm Phẫn Nộ TÂm Xoa Câu , tay thứ hai co cánh tay duỗi ngửa các ngón hướng xuống. Bên trái: tay thứ nhất co lên cầm hoa sen , tay thứ hai duỗi ngửa cầm dây lụa. Tôn này chủ về sự hàng phục ma chướng.
- Bất Không Câu Quán Tự Tại (Aryàmogha
jnã sa) Tôn hình có 3 mặt 4 tay, mỗi mặt có 3 mắt, trên mỗi đỉnh trán
có một vị Hóa Phật , hai mặt hai bên màu xanh . Bên phải : tay thứ nhất nâng cánh tay cao lên cầm Tâm Cổ Câu, tay thứ hai rũ ngửa cầm Tâm Cổ Chử . Bên trái : tay thứ nhất co lại cầm hoa sen bên trên có móc câu, tay thứ hai hạ xuống dựng đứng bàn tay cầm vòng dây (Luân sách). Tôn này chủ về sự Cậu triệu, dẫn nhiếp chúng sanh vào Phật đạo.
* Trong Tô Tất Địa Viện:
- Thập Nhất Diện Quán Âm (Edaka’
sa mukha avalokite’ svara). Tôn hình có 11 mặt và 4 tay. Mặt chính có 2
mặt hai bên, phía trên có 5 mặt và trên cùng có 3 mặt. 11 mặt này biểu
thị cho 11 Địa của Phật quả. Bên phải : tay thứ nhất dựng đứng bàn tay co ngón vô danh, tay thứ hai hạ xuống ngửa lòng bàn tay co ngón trỏ. Bên trái:
tay thứ nhất dựng đứng bàn tay co hai ngón trỏ, ngón giữa cầm hoa sen,
tay thứ hai rũ xuống ngửa bàn tay co 4 ngón lại cầm Táo bình .
Ngoài các mục ghi trên đây. Phật giáo còn ghi nhận thêm 4 vị Bồ Tát Đa La tu trì thành tựu Pháp Quán Âm là:
- Thanh Cảnh Quán Âm (Nìlakanthì) Tôn này có 4 tay hoặc 2 tay. Niệm Tôn này có thể giải thoát được tất cả sự sợ hãi ách nạn.
- Hương Vương Quán Âm (Gandha ràja) Tôn này có 2 tay. Tay phải duỗi trên gối thành tay Thí Vô Úy, tay trái co khuỷu tay cầm hoa sen. Tôn này hay giáng mưa Cam lộ bố thí cho chúng sinh trong 5 đạo.
- A Ma Hai Quán Âm (Abhetrì) Tôn này có tên là Vô Úy Quán Tự Tại.
Tôn tượng có 3 mắt 4 tay ngồi trên lưng con sư tử trắng. Niệm Tôn này
có thể mãn túc các nguyện, đắc túc mệnh trí, được chúng sinh yêu quý,
chứng đắc Tất Địa.
- Thủy Nguyệt Quán Âm (Daka cadra) Tôn này có hai tay, tay trái cầm báu Như Ý, tay phải kết ấn Dữ Nguyện. Tôn này đồng thể với Thủy Cát Tường Bồ Tát. Niệm Tôn này có thể đầy đủ tất cả ước nguyện một cách mau chóng.
Tóm lại, do nhân ứng hóa các phương mà danh hiệu và hình tượng của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có nhiều tướng trạng khác nhau. Thông thường người ta dùng hồng danh Chính Quán Âm để chỉ Đức Quán Âm bản nhiên . Hình tượng của Ngài rất tự do không có quy định theo đặc tính nào cả.
Hồng danh Thánh Quán Âm dùng để chỉ Đức Quán Âm cùng với Đại Thế Chí Bồ Tát theo hầu cận Đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc và xưng là Tây Phương Tam Thánh.
Hồng danh Quán Tự Tại Bồ Tát dùng để chỉ các bậc Giác hữu tình đang tu hành pháp môn QUÁN CHIẾU THẬT TẠI để hoàn thành Tuệ giác siêu việt, hoặc danh hiệu này dùng để chỉ vị Bồ Tát ở cảnh Lý Sự Vô Ngại, quán đạt tự tại.
Hồng danh Quán Thế Âm Bồ Tát dùng để chỉ các bậc Giác hữu tình đang thực hành pháp môn VIÊN THÔNG NHĨ CĂN để hoàn thành 4 tâm vô lượng TỪ, BI, HỶ, XẢ. Hoặc danh hiệu này dùng để chỉ vị Bồ Tát dùng bản nguyện Từ Bi quan sát âm thanh cầu cứu của tất cả chúng sinh trong Đại Thiên thế giới mà nhanh chóng hiện thân đến cứu tế ách nạn.
Tôn tượng của vị Bồ Tát này đều có một
mặt hai tay và có màu thịt trắng hay màu vàng ròng. Còn các Tôn tượng và
danh hiệu khác đều là thân thị hiện theo lực dụng của Pháp thần biến tự
tại nên mỗi mỗi đều có ý nghĩa và nghi quỹ riêng biệt.