Chúng ta không chạy
theo cách nghĩ đám giỗ tưởng nhớ tổ tiên ông bà càng rình rang, linh đình, thì
con cháu mới hãnh diện, chứng tỏ sự phát đạt, thành công, hưng vượng và cố làm
lễ cho thật lớn bằng mọi giá để phô trương với mọi người, dù có thể vay mượn.
Nhưng quan niệm con
cháu tụ tập đông đảo đủ mặt trong ngày tưởng nhớ ông bà tiên tổ là một truyền
thống đáng quý của dân tộc.
Cho dù cỗ bàn cúng kiến
thịnh soạn, cao sang, nhưng con cháu không thể tề tựu như mong muốn, cuộc lễ
thưa vắng, không ấm hơi người, thì đương nhiên chẳng những bậc trưởng tộc phụ
trách tế lễ cũng không dám ngẩng cao đầu nhìn láng giềng làng xóm, mà số ít con
cháu về dự cũng tủi thân với bè bạn, anh em.
Cái quý hơn hết là sự tụ
hội của số đông trong các hoạt động có tính chất tâm linh truyền thống. Cỗ bàn
dâng cúng có thể đơn sơ, con cháu không xênh xang xe ngựa, nhưng nếu tụ hội về
đủ, đứng chật sân ngoài, nhà trong mà dâng hương lễ bái, thì các bậc trưởng thượng
sẽ hết sức tự hào, còn con cháu thì hể hả, sung sướng.
Thể diện, lòng tự hào, tự
trọng của người Việt không chỉ bộc lộ qua lễ giỗ, mà còn ở nhiều hình thức tín
ngưỡng khác, theo đơn vị thường là làng xã.
2.
Phật giáo Việt Nam chúng ta, tôn giáo gắn
liền với dân tộc, đương nhiên cũng nằm trong nếp tư duy đó.
Các tổ đình, tự viện vẫn
theo thông lệ tổ chức trọng thể lễ kỵ giỗ của chư vị tôn đức khai sơn, coi đó
là thể diện, là niềm tự hào của tổ đình, tông môn mình.
Có lễ kỵ số tăng ni Phật
tử tề tựu lên đến hơn con số ngàn, bất kể đường sá xa xôi, hay bận trăm công
ngàn việc.
Mọi người cùng nhau về dự không phải vì bữa giỗ, không
phải vì cầu khấn điều gì trong ngày hôm đó, mà trên hết vì lòng tự hào, cũng
như thể diện của tổ đình, sơn môn, tông phong hay tự viện.
Về phía môn đồ pháp tử,
thì dù khó khăn gì, cũng cố gắng tổ chức một ngày lễ kỵ tươm tất. Có thể mọi
người ngồi bên nhau thọ thực tương chao đạm bạc, nhưng số đông cũng là nhân tố
hàng đầu làm nên sự hoan hỷ, tự hào.
3.
Truyền thống như thế dường như vẫn còn
hiện hữu trong các tổ đình, tự viện, cũng như hầu hết người Việt Nam có tín ngưỡng,
kể cả có thể không phải Phật giáo.
Nhưng điều rất lạ trong
Phật giáo Việt Nam là điều này không được bộc lộ một cách thống nhất trong ngày
tôn kính đức Từ phụ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, mà theo truyền thống, là ngày
Phật đản.
Phật giáo ở một số địa
phương, tỉnh thành có năm tổ chức được những ngày lễ Phật đản hoành tráng, đông
đảo, làm cho tăng ni Phật tử hết thảy đều tự hào, hãnh diện, trong nếp nghĩ
truyền thống cố hữu của người Việt Nam.
Tại Sài Gòn trước đây
và sau đó là TPHCM chúng ta đã chứng kiến những cuộc lễ Phật đản đông đảo quy
mô, làm thay đổi hẳn sinh hoạt của thành phố.
Tại Hà Nội, chúng ta
càng thấy lễ Phật Đản mỗi năm càng được tổ chức lớn hơn, từ khuôn viên chật hẹp
chùa Quán Sứ, tiến lên khuôn viên rộng rãi của Học Viện Phật giáo, rồi nay đã
trở nên tương xứng với tầm vóc ngày lễ lớn nhất của đạo Phật,tôn kính đức Từ Phụ,
được tổ chức bề thế, trang nghiêm ở một quảng trường trung tâm giữa thủ đô Hà Nội.
Có nhiều lý do, nhưng
chắc chắn, trên hết cũng là vì lòng tự hào tín ngưỡng, vì thể diện tôn giáo.
4.
Nhưng điều bất ngờ và khó hiểu là những
năm gần đây, một số địa phương, lại là những thành phố lớn, đông đảo tín đồ, kinh
tế phát triển, nhiều chùa chiền trùng tu, xây mới…Ấy vậy mà, Đại lễ Phật Đản, niềm
tự hào tôn giáo, sự thể hiện thể diện tín ngưỡng của người con Phật Việt Nam lại
được tổ chức theo chiều hướng xuống dốc đến thảm hại.
Quy mô lễ đài thì có thể
năm nào cũng như năm nào, còn số người tham dự tuột xuống mạnh theo cách chọn
điểm tổ chức ở những nơi đó (không gian chật chội hạn chế số người dự lễ).
Đã qua rồi thời kỳ những
người con Phật tự hào tề tựu đến con số hàng chục ngàn hay sao, mà nay với những
địa điểm tổ chức, người ta có thể ước lượng ngay số người tham dự chẳng được
bao nhiêu!
Niềm tự hào, thể diện
và lòng tự trọng tôn giáo có còn chăng và ở đâu trong cách nghĩ như vậy?
Một đám giỗ mà con cháu
không làm được việc tề tựu đông vui chắc chắn sẽ không tránh khỏi cái nhìn
thương hại, có thể lẫn chút khinh khi của những người hàng xóm, mà kỵ giỗ nhà họ
chưa bao giờ có chuyện số con cháu về dự ít ỏi.
Nhưng đàng này,không phải
là một gia tộc, dòng họ, mà là một tôn giáo có 2.000 năm lịch sử trên đất nước
này.
Và điều đó diễn ra
trong bối cảnh những tôn giáo du nhập chưa được một trăm năm có thể dâng lên
giáo chủ của họ những tấm lòng từ một số đông kinh ngạc.
Trước một ngày lễ tín
ngưỡng mà điều kiện tổ chức chắc chắn sẽ làm người tham dự theo hướng ít ỏi như
vậy chắc chắn, nếu còn trong mình tư duy truyền thống của người Việt Nam, thì từ
bậc trưởng thượng cao niên đến những em bé vừa bắt đầu biết suy nghĩ, tự trọng,
chắc chắn không tránh khỏi một nỗi mặc cảm nặng nề.
Có lẽ không phải cái mặc
cảm của cái nghèo hèn, vì trong những đám giỗ nghèo nhưng đủ mặt đông đảo cháu
con, dòng tộc, tề tựu mỗi năm được đông hơn thì vẫn là niềm tự hào, hãnh diện nếu
con cháu đông vầy, dù mâm cổ đạm bạc, đơn sơ
Mà là cái mặc cảm, nỗi
tủi thân của sự vô phước, khi nhìn thấy trước bàn thờ đức Từ phụ số con cháu tề
tựu về tôn kính ngài, vì lý do nào đó, chẳng những không đông đảo hơn mà
càng thưa vắng.
MT