Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Như vậy, không một ai đến viếng Thế Tôn, trừ một người đem đồ ăn lại.
Rồi Thế Tôn, sau khi ba tháng ấy đã mãn, từ chỗ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, gọi các Tỷ-kheo:
Này các Tỷ-kheo, nếu các du sĩ ngoại đạo đến hỏi các ông: “Với sự an
trú nào, này chư Hiền, Sa-môn Gotama an trú nhiều trong mùa mưa?”. Ðược
hỏi vậy, này các Tỷ-kheo, các ông hãy trả lời cho cho các du sĩ ngoại
đạo ấy như sau: “Với định niệm hơi thở vô, hơi thở ra, này chư Hiền, Thế
Tôn an trú nhiều trong các mùa mưa”.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, chánh niệm Ta thở vô, chánh niệm Ta thở ra.
Hay thở vô dài, Ta rõ biết: “Ta thở vô dài”. Hay thở ra dài, Ta rõ
biết: “Ta thở ra dài”. Hay thở vô ngắn, Ta rõ biết: “Ta thở vô ngắn”.
Hay thở ra ngắn, Ta rõ biết: “Ta thở ra ngắn”... “Quán từ bỏ, Ta thở
vô”, Ta rõ biết như vậy. “Quán từ bỏ, Ta thở ra”, Ta rõ biết như vậy.
Này các Tỷ-kheo, ai muốn nói một cách chơn chánh, đây là Thánh trú, đây
là Phạm trú, đây là Như Lai trú; người ấy nói một cách chơn chánh, phải
nói định niệm hơi thở vô, hơi thở ra là Thánh trú, là Phạm trú, là Như
Lai trú.
Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo nào là bậc hữu học, tâm chưa thành tựu,
đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi các khổ ách; những vị ấy tu tập,
làm cho sung mãn định niệm hơi thở vô, hơi thở ra, sẽ đưa đến đoạn tận
các lậu hoặc. Và này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán,
đoạn tận các lậu hoặc, tu hành thành mãn, những việc nên làm đã làm, đã
đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử,
chánh trí, giải thoát; những vị ấy tu tập, làm cho sung mãn định niệm
hơi thở vô, hơi thở ra, ngay trong hiện tại, đưa đến lạc trú, chánh niệm
tỉnh giác.
Này các Tỷ-kheo, ai muốn nói một cách chơn chánh, đây là Thánh trú, đây
là Phạm trú, đây là Như Lai trú; người ấy nói một cách chơn chánh, phải
nói định niệm hơi thở vô, hơi thở ra là Thánh trú, là Phạm trú, là Như
Lai trú.
(Kinh Tương Ưng Bộ V, chương 10, phẩm 2, phần Icchànangala)
SUY NGHIỆM:
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của
chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala,
Ngài đã nhập thất và quyết định “không tiếp một ai”, trừ vị thị giả mang
cơm nước cho Ngài.
Vậy thì Thế Tôn nhập thất an cư để làm gì? Ngài chỉ an trú “với định
niệm hơi thở vô, hơi thở ra…”. Ngài đã làm một việc rất bình thường, đó
là thực hành chỉ-quán của thiền Tứ niệm xứ. Rõ ràng Đức Phật là bậc đã
giác ngộ thì chắc chắn “những việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng
xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí, giải
thoát” nhưng Ngài vẫn an cư và tọa thiền miên mật như chúng Tăng hẳn
phải có nguyên nhân.
Một mặt, Ngài khẳng định rằng tu tập thiền Tứ niệm xứ sẽ “làm cho sung
mãn định niệm hơi thở vô, hơi thở ra, sẽ đưa đến đoạn tận các lậu hoặc”.
Đây là pháp môn căn bản, là con đường thẳng để đi đến thành tựu giải
thoát, Niết-bàn mà các “bậc hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần
cầu vô thượng an ổn khỏi các khổ ách” như chúng ta phải nương theo, hành
trì, nhất là trong ba tháng an cư kiết hạ.
Mặt khác, “định niệm hơi thở vô, hơi thở ra là Thánh trú, là Phạm trú,
là Như Lai trú”. Nghĩa là từ các bậc Thánh vô học trở lên, tuy đã đoạn
tận phiền não và giải thoát hoàn toàn nhưng vẫn an trú trong “định niệm
hơi thở” để nuôi dưỡng thân tâm an lạc. Như vậy, Như Lai và các bậc
Thánh La hán mà còn an trú trong “định niệm hơi thở”, hà huống là phàm
tình như chúng ta.
Ấn tượng nhất vẫn là Phật an cư không tiếp khách. Sự “không tiếp một
ai” và “không một ai đến viếng Thế Tôn” trong mùa an cư của Đức Phật là
bài học cảnh tỉnh cho những người xuất gia vì bộn bề Phật sự mà không
thể thực hành phận sự an cư và cả những hành giả tuy có tùng chúng an cư
nhưng lại quá bận rộn, trong các đạo tràng an cư kiết hạ hiện nay.
(http://www.thichquangtanh.com/)