Lễ
An Cư (VASSA) khởi đầu từ lúc đức Phật còn tại thế, mỗi năm trong chín
tháng tốt trời thì đức Phật và Tăng đoàn đi khắp đó đây để hóa độ chúng
sanh. Ngay sau khi chứng đạo dưới cội Bồ Đề, Đức Phật đã tổ chức an cư
năm đầu tiên tại Vườn Lộc Uyển và suốt 49 năm hoằng hóa độ sanh, Đức
Phật đã an cư liên tục và không gián đoạn một năm nào. Suốt trong ba
tháng mùa Ha, thời tiết thường hay mưa, không hạp du hành, nên Đức Phật
và Tăng đoàn ở yên một nơi gọi là an cư kiết hạ.
1.Truyền Thống An Cư:
Còn gọi Hạ Tọa tức ngồi trong mùa hạ hay là Hạ Lạp. Theo thế gian, nếu
cha mẹ sinh ra đủ năm 12 tháng thì mới gọi là tròn một tuổi. Nhưng trong
Luật Phật chế, hàng xuất gia thọ giới của Đức Phật không tính tuổi theo
năm tháng kiểu thế gian trên - mà tính tuổi theo hạ lạp. Nghĩa là năm
nào có an cư kiết hạ được trọn vẹn thì được tính một tuổi. Thí dụ: Vị
nào an cư kiết hạ từ 15-4 âm lịch đến 15-7 âm lịch là mãn hạ, như vậy
được tính một năm hạ, tức một tuổi hạ. Ai đã thọ Cụ túc giới nhưng không
an cư thì không tính tuổi hạ, còn ai kiết hạ an cư liên tục thì được
tính nhiều tuổi hạ. Cho nên chúng ta thường nghe ở các chùa khi đọc tiểu
sử của một vị Tăng nào viên tịch, thường nhắc đến tuổi đời và hạ lạp.
Thí dụ vị đó 80 tuổi đời và 60 hạ lạp, nghĩa là vị đó có tuổi cha mẹ
sinh là 80 năm, còn tuổi hạ là 60 hạ lạp. Hạ lạp được tính vào ngày rằm
Tự tứ, sau khi đã tu hành tròn ba tháng hạ. Tuy nhiên, cũng có trường
hợp, đúng theo Luật Phật chế, 20 tuổi thì được thọ giới Tỷ-kheo, nhưng
vì thiếu duyên, có vị 25 tuổi mới thọ giới Tỷ-kheo và sau khi thọ giới
mỗi năm đều có kiết hạ. Nếu vị ấy viên tịch vào tuổi 70, thì vị ấy được
45 tuổi hạ và 70 tuổi đời.
Nếu
một vị Tỷ-kheo thọ giới rồi mà không an cư lần nào cả thì coi như vị ấy
hoàn toàn không có tuổi hạ, khác với cha mẹ sinh ta ra, dù ta có làm
hay không làm gì đi nữa hoặc giả có ngủ cả năm đi nữa thì tròn một năm
cũng vẫn được tính tuổi từng năm một. Trái lại, vị Tỷ-kheo phải có kiết
giới an cư thì mới nhận tuổi, còn không an cư, thì không tính hạ lạp
cũng gọi là giới lạp, pháp lạp. Ngày nay, các Tỳ Kheo Tăng, Ni trong
khoảng ba tháng từ mười sáu tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch không
được ra ngoài, phải ở yên một chỗ mà nổ lực tọa thiền, tu trì, và học
hỏi gọi là an cư. Ngoại trừ những vị giảng sư vì trách nhiệm hoằng pháp
phải đi đến những Trường Ha, các Đạo tràng khóa tu để thuyết giảng giáo
lý cho Tăng Ni, Phật tử tu học. Thời kỳ an cư trước thời nhà Đường, gọi
là Tam An Cư gồm Tiền, Trung và Hậu An Cư. Ngày 16 tháng 4 là ngày nhập
An Cư, Tiền An Cư bắt đầu từ 16 tháng 5, Hậu An Cư từ 16 tháng 6, ngày
15 tháng 7 là ngày Giải Hạ và ngày 16 tháng 7 là ngày Tư Tứ. Ngày này,
sau ba tháng An Cư, Tỳ Kheo tự nêu ra các lỗi lầm của mình mắc phải
trước các tỳ Kheo khác và tự sám hối nên gọi là tự tứ, còn gọi là tùy ý
vì tùy theo ý của người khác mà nêu ra các lỗi của mình phạm phải để rồi
tự sám hối, sửa đổi.
2. An Cư là để Trưởng Dưỡng Đạo Tâm.
An Cư là thời gian, động tác dừng lại cuả một hành giả,
bớt tiếp xúc với thế giới bên ngoài trừ khi có có những vấn đề Phật sự
cấp bách và cần thiết. Khi không tiếp xúc vơí thế giới bên ngoài nhiều
như thường ngày, nội lực tu hành của một người tu dễ phát triển hơn là
trong cuộc sống tu hành thường nhật. Trong suốt thời gain ba tháng an
cư, đức Phật vẫn cho phép những sự đi ra ngoài khu vực an cư và những sự
tiếp xúc cần thiết tại điạ điểm an cư trong một số giới hạn. Thời gian
an cư là lúc mà Tăng Ni vun bồi giới đức, gặt hái một hành trang tâm
linh mới cho một tuổi tu hành.
3. An Cư là trao đổi Kinh nghiệm, là học tập.
An Cư là trao đổi kinh nghiệm độ sanh, là tu tập, là học
hỏi thêm những điều mới lạ. An Cư là dịp để Tăng Ni khắp nơi vân tập về
đạo tràng an cư cung cấp những kinh nghiệm độ sanh nhất là cho thành
phần Tăng Ni trẻ và cũng là dịp để lắng nghe những lời dạy quý báu từ
kinh điển cũng như từ kinh nghiệm. Thời gian an cư của Tăng Ni nếu so
sánh với công việc ngoài đời, nó giồng như một hình thức Tu nghiệp mà
các nước tiền tiến thường hay tổ chức các khoá hội thảo (seminar) để
trao đổi kinh nghiệm hay để học thêm những gì mới mẻ, mới sưu tầm và
phát minh. Tăng Ni học hỏi thêm những lời dạy quý báu của đấng Cha lành
nhất là ôn lại giới luật mà Đức Phật đã đặt ra. Đức Phật luôn luôn
nhắc nhở: “Giới Luật là thọ mạng của Tăng già, Giới Luật còn, Phật pháp
còn”. Thật vậy, một người Phật tử chỉ cần giữ 5 giới cấm cũng đủ
thăng hoa cho cuộc sống cá nhân, đủ làm cho gia đình hạnh phúc và nhất
là nếu ai cũng đều giữ giới thì chắc chắn xã hội sẽ vô cùng an lạc và
thế giới sẽ hoà bình. Chúng ta không lầm tưởng Tăng Ni an cư là nghỉ
yên một chỗ. Trong muà An Cư, Tăng Ni còn làm việc nhiều gấp bội hơn
cuộc sống tu hành tại chùa.
4. An Cư là trang nghiêm cho bản thân, cho đạo tràng an cư và cho thiền môn của người tu.
Thật vậy, người Phật tử khắp nơi khi nghe nói đến an cư họ
vui mừng mặc dù biết rằng Thầy họ sẽ đi vắng. Một sự vắng mặt cần thiết
cho nhu cầu tâm linh và sau mùa an cư Thầy họ sẽ vun bồi nhiều giới
đức, thêm kinh nghiệm Phật pháp và khả năng tu hành để hướng dẫn họ trên
con đường tu tập. Đền mùa an cư, nhiều Chùa, Tự Viện thi nhau cúng
dường phẩm vật như một sự vun bồi ruộng phước cho bản thân và gia đình
của người Phật tử. Cúng dường cho một Sa Môn tu hành, người đời cảm thấy
có nhiều phước đức hơn là một vị ít tu. Kinh đã dạy nên cúng dường cho
một Tịnh Tăng. Thât vậy, cúng dường mùa an cư, mùa tu hành, mùa người
tu đang vun bồi giới đức thì còn gì hơn.
Tóm lại, mùa an cư kiết hạ là một phương tiện tu tập, là một môi trường
tâm linh để các hành giả tiếp tục tu hành trong thanh tịnh và trang
nghiêm. Đó cũng là nơi trao đổi kinh nghiệm hoằng pháp độ sinh nhất là
trong thời kỳ hội nhập và phát triển này. An Cư còn là phương tiện rất
tốt để người tại gia được phát tâm cúng dường vào ruộng phước, người
xuất gia tiếp nhận nó, nêu cao tâm nguyện tu tập và xiển dương giáo lý
Phật đà.
Nhiều vị xuất gia thường nói câu tâm niệm rất sâu sắc: “Kiếp này tu tập
không đạt kết quả thì kiếp sau phải mang lông đội sừng để đền trả nợ
của đàn na”. Tức là người xuất gia khi tiếp nhận phẩm vật cúng dường của
người tại gia không nên hãnh diện tự hào mà lúc nào cũng phải nghĩ mình
có đủ giới đức, phước báu để tiếp nhận nó hay không. Tiếp nhận như việc
vay nợ ngân hàng, người tại gia cho vay nợ mà không đòi trả cả vốn lẫn
lời. Người xuất gia khi tiếp nhận nó phải có Phật sự xứng đáng hơn để
đền bù. Tài thí, pháp thí lưỡng toàn mới là các Phật sự đối đãi hổ tương
tốt đẹp. Khi tiếp nhận, người xuất gia phải làm sao ban bố những bài
pháp thiết thực, lợi ích cho người tại gia để đền trả món nợ này. Trong
mùa An Cư, người xuất gia có đầy đủ phương tiện và cơ hội để làm những
việc cần thiết này.
Nhiều vị xuất gia khác mỗi lần tiếp nhận phẩm vật cúng dường còn quan
niệm người xuất gia giống như viên đá mài và người tại gia như là cái
dao, cái kéo. Cứ sau mỗi khi cúng dường, cái dao, cái kéo của người tại
gia bén hơn, đồng thời viên đá mài của người xuất gia mòn đi chút ít.
Nếu không tinh tấn tu hành thì viên đá mài này, sau bao nhiêu năm nhận
cúng dường sẽ mòn hết. Nếu tu hành tinh tấn thì từ một viên đá mài sẽ
sinh sôi thành hàng trăm, hàng ngàn viên đá, cứ mài thoải mái, mài mãi
trong không gian vô cùng và trong suốt thời gian vô tận. An Cư là một
cơ hội cho bốn chúng đồng tu cùng thăng tiến và nhờ đó xã hội được an
vui và hạnh phúc, thế giới hoà bình. Đó là vài ý nghĩa đơn sơ của An Cư
Kiết Hạ