
(Lôgô của nhà xuất bản là những vòng tròn đồng tâm gồm
các chấm nối liền nhau, như là một biểu tượng cho sự đoàn kết toàn cầu. Ở góc
trên bên phải của bìa sách còn thấy đề thêm: "Cho những người đi ngược gió".
Tên của nhà xuất bản là "Indigène" ("Người bản xứ") có lẽ mang
hậu ý là phải kính trọng nhân phẩm của họ. Chữ Indigène cũng là một cách chơi
chữ, vì có thể xem như được ghép bởi chữ "indi-" là phần đầu của chữ
indigner có nghĩa là phẫn nộ, và chữ gène có nghĩa là nhân tố di truyền. Nghĩa
từ chương của quyển sách là "Vì sự
tiến bộ tinh thần - Hãy cùng tuyên bố Hòa Bình !", thế nhưng người ta thường
nói tuyên bố chiến tranh và không
mấy ai lại sử dụng chữ tuyên bố để
nói đến Hòa Bình, vì thế tựa của
quyển sách cũng có thể dịch là: "Vì sự tiến bộ tinh thần - Hãy cùng nắm
tay trong một cuộc chiến Hòa Bình" hoặc "Vì sự tiến bộ tinh thần -
Hãy cùng nhau chiến đấu trong Hòa Bình". Dù sao thì cách chạy tựa của
quyển sách cũng vô cùng kín đáo và siêu việt và do đó cũng xin được giữ nguyên
cách dịch từ chương như thế. Nói chung thì nội dung của quyển sách còn hàm chứa
thật nhiều gợi ý vô cùng tinh tế khác nữa, vậy xin mời người đọc hãy tự tìm
hiểu và thưởng thức).
Lời tựa
Có
lẽ cũng không cần phải chờ đợi lâu để quý vị sẽ thấy là quyển sách bé nhỏ này là
biểu trưng không biết bao nhiêu lần hơn cho lòng tin tưởng và quyết tâm của tác
giả so với một quyển sách trước đây mang tựa đề là Chúng ta hãy phẫn nộ ( "Indignez vous!" - quyển sách này của Stéphane
Hessel đã được xuất bản vào tháng 10, năm 2010, và đã bán được 300 000
cuốn trong ba tháng đầu, 950 000 cuốn trong vòng 10 tuần lễ sau đó, và con
số bán đã lên hơn 4 triệu cuốn trong năm vừa qua và vẫn còn tiếp tục tăng đều. Quyển
sách này cũng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng kể cả tiếng Trung Quốc và đã gây ra một
phong trào bất bạo động chống lại sự bất công và các sức mạnh tài phiệt cũng
như sự độc đoán trên toàn thế giới. Ngày thứ bảy 12 tháng 5, năm 2012 vừa qua cũng
đã có nhiều cuộc biểu tình tại một số các thành phố lớn trên thế giới để kỷ
niệm một năm phong trào này được thành lập - xin lưu ý người đọc là các hàng
chữ nghiêng đặt trong hai dấu ngoặc trong phần chuyển ngữ là của người dịch
thêm vào nhằm giúp người đọc dễ theo dõi nguyên bản). Quá khứ đã
chứng minh một cách hùng hồn là nhà xuất bản Indigène của chúng tôi không bao giờ nghĩ đến việc kiếm thêm một mớ
tiền bán sách như một số người khác (quyển sách này và quyển sách trước đây tức quyển "Chúng
ta hãy phẫn nộ!" được bán với giá còn rẻ hơn cả một tờ tạp chí hàng
tuần, và quyển sách "Hãy cùng tuyên bố Hòa Bình" này đang là quyển
sách bán chạy nhất hiện nay tại Pháp).
Chúng tôi hy vọng là quyển sách ghi
lại cuộc đàm thoại này giữa ông Stéphane Hessel và Ngài Tenzin Gyatso, vị đại
diện thứ XIV của một dòng truyền thừa các vị lạt-ma hình thành từ một vùng
trung tâm Á Châu, có thể giúp cho một số thật đông đảo người đọc hiểu biết về những
gì đang biến đổi ngày nay trên hành tinh này: đó là sự quay về với những giá
trị tinh thần.
Phải
chăng từ khi đồng tiền bắt đầu biểu trưng cho giá trị lớn nhất của cả nhân loại
thì các chữ như "giá trị tinh thần" cũng theo đó mà trở thành lạc hậu
và chỉ gây thêm bực mình cho mọi người mà thôi? Vị cựu chủ tịch chính phủ lưu
vong Tây Tạng là Samdhong Rimpoché, và cũng là người được Đức Đạt-lai Lạt-ma
giao phó trọng trách tham dự đám táng của ông Václav Havel (cựu tổng thống Tiệp Khắc, mất ngày 28 tháng
12, năm 2011), đã từng tuyên bố như sau : "Chính vì lý do đó
mà mỗi khi phải giáp mặt với Trung
Quốc thì chẳng thấy có một người nào dám đưa cái ngón tay nhỏ
bé của mình lên, dù đấy chỉ là để xin phép được nêu lên một thắc mắc thật nhỏ. Sự
sợ hãi và tham tiền đã điều khiển cả thế giới này rồi".
Chúng ta chỉ biết đánh giá sự "tiến
bộ" bằng cách duy nhất là căn cứ vào khả năng thu hoạch vật chất, thế thì chúng
ta hãy thử mang dâng các thứ ấy cho lãnh vực tinh thần xem sao? Vì thế chúng ta
cũng nên mượn dịp này để cùng bàn thảo về các tiến bộ tinh thần. Thế nhưng tinh
thần là gì? Đấy là một thứ gì được ghi khắc thật sâu vào trong xác thân con
người, và dù cho con người có tin hay không, thì cái tinh thần ấy vẫn luôn là một
mẫu số chung nhằm liên kết tất cả mọi con người với nhau. Nói lên điều này có
nghĩa là tự thú nhận rằng: tinh thần không nâng cao và vượt lên trên các điều
kiện trói buộc con người, mà đúng hơn là để giúp con người biết dấn thân vào
cuộc sống, hầu giúp con người kiến tạo những gì phù hợp với nguyện vọng trong cuộc
sống của mình.
Cơ
duyên đã xảy đến vào ngày 15 tháng 8 năm vừa qua (2011), khi Đức Đạt-lai Lạt-ma diễn
thuyết trước công chúng tại Toulouse (một tỉnh lớn ở miền tây nam nước Pháp) với chủ
đề "Nghệ thuật mưu cầu hạnh phúc", và chính trong dịp này cái thân
xác thánh thiện của Stéphane Hessel đã tiếp nhận được cái nghị lực trần tục của
Đức Đạt-Lai Lạt-ma (đây là một cách chơi chữ bằng cách sử dụng cách nói ngược
để nhấn mạnh thêm ý mà mình muốn nói lên : tăng thêm ý chí cho một người
thế tục bằng thân xác thánh thiện của một người tu hành, và ngược lại thì gia
tăng quyết tâm của một con người tu hành bằng nghị lực dấn thân của một người
thế tục). "Chúng ta là hai con quỷ sứ, và nếu là hai con quỷ thì
nhất định sẽ mạnh hơn là một !", sau câu nói đùa trên đây thì vị lãnh
đạo xứ Tây Tạng phá lên một tràng cười to, và Ngài cho biết là người Trung Quốc thường dùng cái tên ấy
để mà gán cho Ngài. Cái vai trò của "quỷ sứ" thì Hessel cũng đã
từng biết đến trong cuộc sống thật dài của mình (S. Hessel đã 94 tuổi), khi ông tham
gia kháng chiến chống lại bọn quốc xã, và ngày nay thì ông cũng đang sử dụng nó
để chống lại sức mạnh sai khiến của đồng tiền mà trước đây ông đã có dịp nêu
lên trong quyển "Chúng ta hãy phẫn
nộ!" (chẳng thà làm một tên quỷ sứ để ngửa mặt mà cười, còn hơn
là làm một con người để cúi đầu vâng lời).
Bốn
tháng sau đó, tại thủ đô Prague (Tiệp Khắc), Václav Havel (cựu tổng thống Tiệp) mặc dù đang lâm
trọng bệnh và cận kề cái chết thế nhưng vẫn đã triệu tập một cuộc hội thảo về vấn
đề tôn trọng nhân quyền tại các nước Đông Á, nhằm tôn vinh một người ly khai Trung Quốc là Lưu Hiểu Ba (Liu
Xiaobo), hiện vẫn còn đang bị giam cầm mặc dù một năm trước đó ông ta đã được
trao tặng giải thưởng Nobel Hòa Bình. Chính bên lề cuộc hội thảo này mà hai
người (Đức
Đạt-lai Lat-ma và Stéphane Hessel) đã gặp nhau và thảo luận một cách
thật thẳng thắn. Cả hai đều muốn tìm hiểu xem Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền do Liên
Hiệp Quốc công bố ngày 10 tháng 12, năm 1948 tại điện Chaillot Paris ngày nay có
mang lại thêm được kết quả mới mẻ có giá trị toàn cầu nào hay chăng. Và cũng để
tìm hiểu xem là sự tiến bộ tinh thần, mà ngày nay chẳng ai thèm nhắc đến, có
còn xứng đáng để được đặt bên cạnh sự "tiến bộ khoa học" như đã được
ghi trong điều khoản thứ 27 trong Bản Tuyên Ngôn hay chăng.
Cuộc
đối thoại mặt giáp mặt giữa một con người thế tục không hề nhụt chí và một vị
lãnh đạo tinh thần xuất thân từ một dòng tái sinh, đã cho thấy sự khởi đầu của
một thời đại mới. Từ lâu chúng tôi vẫn hằng thiết tha mong mỏi sự kiện này có
ngày sẽ đến, và thật ra thì chúng tôi cũng đã tranh đấu cho xứ Tây Tạng từ năm
1993, tức là ba năm trước khi thành lập tổ chức Indigène. Cái thân xác "không
cần phải chống gậy" đó (tức muốn nói đến S. Hessel đã 94 tuổi mà còn rất khoẻ mạnh)
thuộc lớp đàn anh và lớn hơn Đức Đạt-lai Lạt-ma đến 18 tuổi thế nhưng luôn hiện
ra với một phong thái "thật trẻ trung" đã khiến cho Đức Đạt-lai Lạt-ma
phải thán phục. Về phần mình thì con người già nua đó (tức là S. Hessel) đã vô cùng may
mắn được gặp vị "Thánh Thiện đầu tiên và duy nhất" (tức là Đức Đạt-lai
Lạt-ma) trong cuộc đời mình, và ông cũng cứ luôn thắc mắc muốn tìm
hiểu xem tại sao các ngành thần kinh học Âu Châu và Hoa Kỳ lại xen vào các chuyện tu
tập riêng tư của Phật Giáo như thế : tức là nghiên cứu các kết quả cụ thể
mang lại từ thiền định, phép nội quán, và các giấc mơ trong suốt (thể dạng nhập
định) giúp cải thiện tình trạng sức khoẻ trên thân xác cũng như tâm
thần (ý nói là
S. Hessel cũng rất thán phục sức khoẻ và sự vui tươi của Đức Đạt-lai Lạt-ma do
thiền định mang lại cho Ngài). Hai vầng trán nóng của họ chạm vào
nhau (gục đầu và
chạm trán vào nhau là cách chào hỏi thân thiện theo tập tục của người Tây Tạng)
và truyền cho nhau mối thiện cảm trong tim cùng sự quyết tâm hành động trên đôi
tay của họ. Thiết nghĩ viết ra bấy nhiêu cũng đủ để nói lên những gì cần phải
nói.
Quả
thật hết sức rõ rệt là chủ trương tận diệt văn hóa của chính phủ Trung Quốc đối với dân tộc Tây
Tạng cũng chính là một sự diệt chủng đối với các giá trị căn bản và toàn cầu
nhất của con người: đấy là những giá trị tinh thần. Từ thập niên 1990 đến nay các
phong trào bất-bạo-động trên thế giới đã mang lại nhiều thành quả lớn lao, tất
cả là nhờ vào các nhà lãnh đạo như Mikhail Gorbachev, Václav Havel, Nelson
Mandela, Desmond Tutu và nổi bật hơn hết là Martin Luther King cũng như một con
người thật sáng suốt là Mahatma Gandhi - chúng ta sẽ có dịp nghe nói đến họ
trong cuộc đàm thoại này -, các thành quả ấy đã chứng tỏ một cách hùng hồn là hiện
có một sự thức tỉnh nào đó đang được hình thành, và sự thức tỉnh đó không chỉ nhất
thiết giới hạn trong một vài nơi trên hành tinh này, dù cho một vài nơi ngày
nay cũng đang phải gánh chịu nhiều đớn đau hơn so với các nơi khác, chẳng hạn
như phía bên kia dãy Hy-mã-lạp-sơn có những con người đang tự thiêu để bảo vệ nền
văn hóa và các giá trị tinh thần của mình.
Có
lẽ chỉ còn cần đến sự dấn thân nhiệt tình của Stéphane Hessel để làm bùng lên
lòng nhiệt huyết của những con người phẫn nộ trong khắp bốn nẻo của hành tinh này,
những con người luôn quan tâm đến cuộc chiến tinh thần đang chờ đợi họ. Và hình
như tất cả cũng đã sẵn sàng!
S.C.
/ J.P.B.
Sylvie Crossman &Jean-Pierre Barou
Chúng tôi (nhà xuất bản)
xin chân thành cảm tạ các vị sau đây đã góp phần tích cực trong việc thực hiện
quyển sách này :
- tại Zurich (Thụy Sĩ) : Kelsang Gyaltsen, Đặc sứ đại
diện cho Đức Đạt-lai Lạt-ma tại Âu Châu và người phụ tá của Ngài là Tenzin D.
Sewo.
- tại Paris : Wangpo Bashi, Tổng Thư Ký Văn phòng Đại Diện Tây
Tạng.
- tại Schéchèn (Nepal) : Mathieu
Ricard
- tại Körschach-Mauthen (Áo quốc) : Jennifer Lorenzi.
Vì sự tiến bộ tinh thần
HÃY CÙNG TUYÊN BỐ HÒA BÌNH !
STÉPHANE HESSEL : Thật
không mấy khi tôi được hân hạnh giáp mặt với một người tu hành. Ngài là một vị
Thánh Thiện (Sa Sainteté
/ His Holiness) trân quý nhất của tôi, xin thú thật là đối với tôi
thì ngoài Ngài ra tôi chẳng còn thấy ai xứng đáng với cái tước vị đó cả. Tôi
xin phép Ngài được thổ lộ một đôi lời. Trước đây vào năm 1948, khi soạn thảo
bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền, chúng tôi cũng đã từng nêu lên một thắc
mắc như sau: chúng ta có nên nói đến Trời hay không ? Một số người cho
rằng đấy cũng là một điều nên làm để nói lên rằng những gì mà chúng ta đang làm
và đang hoàn tất đều là "nhân danh Trời". Một số người khác thì
chống lại: không, không nên nói đến Trời. Trong số các người này có giáo
sư Pen-Chun Chang, triết gia, nhà soạn kịch và học giả về Khổng Học, đại diện
cho Trung Quốc thời bấy giờ, không phải là Trung Quốc của Mao mà của một vị
chống lại Mao, đấy là Tưởng Giới Thạch. Pen-Chun Chang là một thành viên của
Vatican và đã gia nhập ban soạn thảo với tư cách là quan sát viên. Chính ý kiến
của ông ta đã giúp chúng tôi ra thoát ngõ bí : "Không nên nói đến Trời
mà chỉ nên đề cập đến nhân phẩm con người". Thật thế nếu xem lại lời mở
đầu của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền thì Ngài sẽ thấy ngay là bản Tuyên
Ngôn chỉ nêu lên "nhân phẩm hiện hữu trong tất cả thành phần của gia đình
nhân loại". Vào thời bấy giờ chúng tôi nào có ý thức được là gia đình nhân
loại lại tương liên và tương kết với môi trường, với thiên nhiên và với địa cầu
đâu (hiện tượng
tương liên - interdependence - là một trong các khái niệm căn bản nhất trong giáo
lý Phật Giáo, kinh sách tiếng Việt gọi là Lý Duyên Khởi). Chúng tôi nghĩ
rằng cứ tha hồ khai thác các nguồn năng lượng bất tận của thế giới này mà không
gây ra một hậu quả tai hại nào cả. Thế nhưng ngày nay thì chúng tôi đã hiểu
rằng từ đây đến hai mươi năm nữa thì bảy tỉ người (hiện nay dân số trên địa cầu đã là bảy tỉ
người, trong hai mươi năm nữa con số này sẽ còn gia tăng thêm vì phải cộng thêm
một thế hệ trẻ nữa) trên hành tinh này sẽ phải đối đầu với một cuộc
khủng hoảng vô tiền khoáng hậu. Đến khi đó thì chúng tôi sẽ không còn có thể nói
lên được nữa là : "Chúng tôi yêu quý Paris và muốn cho cái thành
phố ấy sẽ phải tránh đuợc những cảnh tượng khủng khiếp sẽ xảy đến với nó".
Thế nhưng nào có phải chỉ có Paris đâu, còn thiên nhiên và cả chúng ta trong đó
nữa. Thật thế chúng ta phải biết kính trọng phẩm giá của cả thiên nhiên. Chẳng
qua vì thiên nhiên cũng có thể bị chà đạp và hủy hoại.
Đức ĐẠT-LAI LẠT-MA : Là một
nhà sư Phật Giáo, vâng, quả đúng như thế, tôi chỉ là một người tu hành và với
tư cách đó tôi phải dấn thân để mang lại sự hài hòa giữa các tôn giáo. Thế
nhưng mỗi khi phải tự giới thiệu mình thì tôi sẽ nói lên rằng: tôi chỉ là một con
người trong số bảy tỉ người đang sống trên hành tinh này, và tôi sẽ tự gán cho
cái thân xác con người đó của tôi cái trọng trách phải chăm lo cho nhân loại. Tuyệt
nhiên đấy không phải là vì một quốc gia nào cả, nhất định là không, và cũng
chẳng phải là vì một chính phủ nào cả, hoàn toàn chỉ vì nhân loại với ý nghĩa thật
rộng lớn của nó, và còn bao quát hơn thế nữa tức là cả hành tinh này mà tất cả chúng
ta cùng nhau đang chia sẻ một sự sống chung với muông thú, cỏ cây, và cái hành
tinh ấy thật ra thì cũng chính là một ngôi nhà duy nhất chung cho tất cả chúng
ta. Theo tín ngưỡng Phật Giáo của chúng tôi, và đồng thời thì tôi cũng nghĩ rằng
một số các triết gia của quý vị cũng tin như thế, thì ngay cả thú vật cũng cảm
nhận được lạc thú và đớn đau, và do đó cũng hàm chứa một tri thức nào đó (1) (xem ghi chú của
nhà xuất bản ở cuối sách). Về phần cây cỏ thì đã từ hai nghìn năm
nay đã có không biết bao nhiêu cuộc tranh biện nhằm tìm hiểu xem chúng có hàm
chứa một thứ tri giác nào đó hay chăng. Dù sao đi nữa thì cỏ cây cũng có quyền được
sống. Từ nguyên thủy chúng ta sống giữa cỏ cây và nếu như các kỹ thuật hiện đại
có tách rời chúng ta ra khỏi môi trường của chúng thì cái cảm tính tương kết với
thiên nhiên vẫn còn lưu lại trong tâm hồn chúng ta, trong huyết quản của chúng
ta. Cái cảm tính đó sẽ tràn dâng mỗi khi chúng ta ngắm nhìn những cánh đồng cỏ,
những cánh rừng hoang hay những bông hoa đang đua nở. Chúng ta sẽ cảm thấy an
bình và hạnh phúc mỗi khi có dịp ngắm nhìn hay được gần gũi hơn với chúng.
Hiện tượng tương liên
S. H. : Đấy là những gì thật quan trọng. Đối với đức
tin Ki-tô Giáo và Do Thái Giáo thì Trời giao cho con người trọng trách phải đặt
tên cho các vật thể trong thiên nhiên để có thể phát biểu rằng: đây là một cánh
rừng, đây là một gốc cây... Tôi nghĩ rằng đấy không phải là một giải pháp đúng
đắn để tiếp cận với thiên nhiên. Con người nào có phải là chủ nhân ông của cả thiên
nhiên đâu, mà đơn giản họ chỉ là một thành phần của thiên nhiên mà thôi. Dựa
vào đó, người ta có thể nghĩ rằng giá trị tinh thần chính đáng nhất trên thế
giới không nhất thiết chỉ là tinh thần của con người. Con người có thể nắm bắt
được một phần của cái tinh thần đó mà thôi, vì thế tinh thần nhất định không
phải là gia sản riêng tư của con người.
Đức ĐLLM : Đối với Phật Giáo cũng như
đối với đạo Ja-in (Jaïnism) - một tôn giáo lâu đời khác của Ấn Độ - thì không
hề có một vị sáng tạo tuyệt đối, và không có bất cứ gì có thể mang tính cách
độc lập được. Tất cả chỉ là hậu quả gây ra từ các nguyên nhân và điều kiện. Tất
cả đều tương liên, tương kết và tương tạo với nhau. Quy luật duy nhất quản lý tất
cả chúng ta là quy luật nguyên nhân và hậu quả (2) (quy luật này cũng chính là cách vận hành của hiện
tượng tương liên - interdependence - trong vũ trụ).
S. H. : Không có gì khởi đầu, cũng
chẳng có gì chấm dứt, tất cả chỉ là sự chuyển động...
INDIGÈNE (người đại diện cho ban tổ chức và nhà xuất bản) :
Theo chúng tôi hiểu thì những gì mà cả hai vị vừa trình bày về hiện tượng tương
liên thì khái niệm này có thể hiểu bằng hai cách khác nhau tùy theo mình đứng
vào vị thế nào: Do Thái và Ki-tô Giáo hay là Phật Giáo. Một bên thì tin là có
Trời và một bên thì không.
Đức ĐLLM : Các người tu tập theo Ki-tô
Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo, kể cả Ấn Giáo đều chấp nhận ý niệm về một vị sáng
tạo. Tất cả các tín ngưỡng đó đều đã góp phần đáng kể trong việc giúp đỡ nhân
loại và đã từ hàng nghìn năm nay, vì thế chúng ta cũng không nên xen vào sự
tiến hành tốt đẹp đó để làm gì. Chỉ nên cố gắng cải thiện các giá trị tốt đẹp mà
các tôn giáo ấy nêu lên: ấy là tình thương, lòng từ bi, sự tha thứ. Tất cả các
tôn giáo đều hàm chứa một vẻ đẹp riêng, và chúng ta phải biết kính trọng tất cả
các tín ngưỡng ấy. Tuy nhiên nếu chúng ta muốn đạt được một chiều rộng mang tính
cách toàn cầu hơn thì phải tự đặt mình vào một cấp bậc khác, tức là cấp bập của
đạo đức thế tục. Sống một cuộc sống thế tục không có nghĩa là không-kính-trọng
tôn giáo. Đạo đức thế tục kính trọng tất cả các tôn giáo và kể cả những người
không-tin-vào-tôn-giáo, và tất nhiên là các người ấy cũng có quyền được tiếp
tục không tin vào tôn giáo. Trên lãnh vực cá nhân thì chúng ta nên suy nghĩ như
thế này: "mỗi tôn giáo, một sự thật", nếu nhìn vấn đề rộng hơn thuộc toàn
thể gia đình nhân loại thì chúng ta lại suy nghĩ như sau: "nhiều tôn giáo,
tất nhiều sự thật". Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền không hề phân
biệt tôn giáo này với tôn giáo kia, quốc gia này với quốc gia khác. Bản Tuyên
ngôn chỉ nêu lên toàn thể nhân loại.
S. H. : Có Trời hay không thì chúng ta vẫn
cứ phải gánh vác trách nhiệm với tư cách một con người, và hơn nữa đấy không
phải là một thứ trách nhiệm đối với riêng gia đình nhân loại như đã được nêu lên
trong Bản Tuyên Ngôn năm 1948. Hiện tượng tương liên chi phối tất cả chúng ta,
dù cho chúng ta có đức tin hay không. Chúng ta phải tạo ra cho mình một thứ
tình thân ái mới mẻ hơn để giao tiếp với thiên nhiên. Trước đây chúng ta đã không
làm tròn được bổn phận đó. Chúng ta đã hành xử quá "man rợ" đối
với thiên nhiên. Do đó từ nay chúng ta nên cố gắng hơn để hành động như thế nào
hầu có thể giúp cho cây cỏ, mặt trời và muông thú được sống còn. Theo tôi thì những
điều đó phải được xem là một mục tiêu phải đạt cho bằng được, một sự thách đố lớn
lao đối với tất cả các quốc gia trên địa cầu.
Đức ĐLLM : Đấy không phải đơn giản chỉ
là bổn phận, mà còn liên hệ đến cả sự sống còn của chính chúng ta nữa: sự gia
tăng nhiệt độ trên địa cầu, năng suất nông phẩm ngày càng giảm xuống, dưỡng khí
giúp cho sự sống hằng ngày trở nên hiếm hoi, ô nhiễm lan tràn khắp nơi... Nhân
quyền của con người đang ở đâu bây giờ?
S. H. : Trong lúc mà chúng ta đang
ngồi đây để bàn thảo với nhau thì tại Durban ở Nam Phi, 194 Quốc Gia đang tham
dự khóa họp thứ 17 của Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về vấn đề thay đổi khí hậu. Thế nhưng họ sẽ làm được gì?
Thật là ít ỏi. Chính đấy là lý do khiến tôi phải phẫn nộ tương tự như sự phẫn
nộ mà tôi đã từng nêu lên trong một quyển sách nhỏ trước đây của tôi. Các chính
phủ ngày nay tỏ ra quá yếu đuối và rụt rè. Mặc dù hiểu rõ những gì mà cả hai
chúng ta đang nêu lên: tức là thiên nhiên và nhân loại đang lâm nguy, thế nhưng
họ lại không hề động đậy, họ chẳng có một phương tiện nào để hành động, cơ cấu quản
lý tài chính đã tạo ra một sức ép quá nặng nề.
Đức ĐLLM : Chúng ta chỉ biết quan tâm đến
kết quả trước mặt và quên đi các hậu quả lâu dài. Tôi có dịp nói chuyện với một
số người trong giới kinh doanh và họ cho biết rằng cuộc khủng hoảng kinh tế
hiện nay đã gây ra nhiều thiệt hại lớn lao và hầu hết đều thú nhận là họ không
hề nghĩ đến những gì có thể xảy ra trong vòng mười đến hai mươi năm sắp tới. Họ
chỉ nghĩ đến việc phải giải quyết những gì cấp bách, chẳng hạn như tìm cách vay
mượn thêm, và không hề biết nhận lãnh trách nhiệm của mình đối với các thế hệ
tương lai, các thế hệ của chính con cháu họ. Theo tôi nghĩ thì đấy chẳng qua là
vì họ quá tính toán và không hề nghĩ đến khía cạnh tương liên của mọi hiện
tượng. Tương lai tùy thuộc vào hiện tại. Tất cả các dự án của chúng ta dù được
hoạch định theo chiều hướng nào đi nữa thì cũng phải nghĩ đến các hậu quả lâu
dài. Nếu không đủ sức dự đoán trước một ngàn năm thì ít ra cũng phải nghĩ đến
hậu quả sẽ xảy đến trong mười năm! Khi chúng ta nhìn vào các cuộc đình công và
bạo động xảy ra tại Hy Lạp cũng như các nơi khác, thì chúng ta cũng phải tự hỏi
những gì sẽ xảy ra nếu biết chọn một biện pháp tuần tự hơn, tức là từng chút
một, thay vì áp đặt một cách đột ngột biện pháp thắt lưng buộc bụng thật nghiệt
ngã như hiện nay? Đấy là những gì mà tôi
gọi là một tầm nhìn mang tính cách toàn diện hơn.
Một bản sơ đồ phác họa các giá
trị tinh thần
S. H. : Chuyển kiến thức thành hành
động là cả một sự cam go đối với con người. Có thể chúng ta cũng có dịp đọc
được vài quyển sách hay, chẳng hạn như các sách ấy nêu lên : Coi chừng
đấy, nếu cứ tiếp tục phung phí xăng dầu như hiện nay thì trong mười năm nữa là xăng
sẽ cạn hết! Dù ý thức được điều ấy thế nhưng chúng ta vẫn cứ tự nhủ : họ nói
đúng đấy, thế nhưng phần tôi thì nào tôi có làm gì được đâu? Tôi phải sử dụng
chiếc xe của tôi chứ, dù tôi có cố gắng tậu một chiếc xe khác uống ít xăng hơn
một tí thì tôi cũng cứ phải tiếp tục sử dụng nó. Tóm lại nếu muốn cho kiến thức
biến thành hành động thì còn phải cần đến thêm một cái gì khác nữa, và cái ấy
thì Ngài cũng đã cho biết một cách thật rõ ràng: đấy là lòng từ bi. Chúng ta
không phải chỉ biết suy nghĩ suông mà còn phải chuyển sự suy nghĩ ấy trở thành hành
động nữa, thế nhưng phải hành động với lòng từ bi. Phải hiểu rằng khi chúng ta làm
một việc gì đó dù là tốt hay xấu, thì đấy cũng không phải là vô thưởng vô phạt,
mà thật ra thì hậu quả mang lại luôn liên quan đến những người khác chung
quanh, vì thế khi thực thi một điều gì thì đấy không nhất thiết chỉ vì chúng ta
mà còn vì người khác nữa. Chỉ khi nào chúng ta ý thức được là cách hành xử của
chúng ta luôn liên hệ đến sự an vui của người khác thì khi đó may ra chúng ta
mới có thể cùng nhau đi xa hơn được.
Đức ĐLLM : Đúng thế, đấy là lòng từ bi,
một cách ý thức được trách nhiệm của chính mình. Khi nào các bạn hiểu được rằng
"tôi cũng có bổn phận phải chăm sóc cho gian nhà của tôi, cho số phận của
con cháu tôi" thì khi đó các bạn cũng phải biết nghĩ đến người khác và từ
đó hành động sẽ phát sinh. Ý thức về trách nhiệm hình thành từ một sự thức tỉnh
tinh thần. Sự ý thức đó không phát sinh từ một thứ đức tin nào cả mà đúng hơn
là bằng sự phân tích. Tôi cho rằng nền giáo dục ngày nay chỉ biết hướng vào các
giá trị vật chất. Không thấy có gì trực tiếp giúp vào việc biến cải tâm thần. Mỗi
khi nghe nói đến lãnh vực tinh thần thì mọi người sẽ gán ngay cho chúng ta cái hậu
ý quảng bá tôn giáo. Thế nhưng nào có ai có thể chối cãi được là cuộc sống hằng
ngày cũng như mọi hoạch định của mình đều được điều khiển bởi tâm thức của
chính mình. Nếu chúng ta đi du lịch ở một nơi nào đó tại một lục địa khác thì
chúng ta cũng phải xem bản đồ để tìm đường. Cũng thế khi nói đến lòng từ bi và sự
tha thứ – là những gì thuộc tâm thức – thì đương nhiên chúng ta cũng sẽ phải
cần đến một tấm bản đồ của tâm thức. Tấm bản đồ ấy sẽ giúp chúng ta chuyển đổi từ
một thể dạng xúc cảm này sang một thể dạng xúc cảm khác, và cũng để hiểu rằng tại
sao một sự xúc cảm lại rời nơi này để đến nơi khác và biến thành một xúc
cảm khác; để rồi sau đó lại tiếp tục biến thành một xúc cảm khác nữa. Cái
tấm bản đồ đó giúp chúng ta nhận ra được sự sinh hoạt thật kỳ thú trong
tâm thức của chính mình. Tất cả những thứ ấy chẳng có gì gọi là tôn giáo cả,
hoàn toàn không dính dáng gì đến tín ngưỡng. Thật đơn giản, đấy chỉ là cách giúp
chúng ta biết chăm sóc đến thân xác và tâm thức của mình, cái tâm thức ấy thuộc
vào não bộ của chính mình. Não bộ quả thật hết sức tinh xảo. Tâm thần, tri thức
và các thứ xúc cảm - hiện ra trong não bộ - cũng rất tinh xảo. Thế nhưng hệ
thống giáo dục hiện nay của chúng ta thì lại không hề nghĩ đến việc giúp chúng
ta học hỏi về những thứ ấy.
S. H. : Quả đúng như thế, nhà trường chẳng
giảng dạy cho chúng ta được gì cả về sự phức tạp của tâm thức chúng ta. Tôi nghĩ
rằng giáo dục Phật Giáo có thể giúp vào việc phác họa các tấm bản đồ xác định
các thứ tình cảm cũng như các thứ xúc cảm và cả các phương pháp giúp chúng ta tránh
được sự hung bạo. Đấy là những gì mà chúng ta đã không hề biết đưa vào hệ thống
giáo dục Thiên Chúa Giáo trước đây và cả đối với nền giáo dục tân tiến và thế
tục ngày nay. Chúng ta không cần biết là phải đặt sự hung bạo ra xa. Chúng ta cứ
nghĩ rằng: chúng ta có lý và chúng ta cứ hành động! Chẳng cần phải nghĩ đến
người khác làm gì.
Thiết nghĩ đến đây chúng
ta cũng cần phải nêu lên thêm một thông điệp quan trọng khác nữa – đó cũng là
thông điệp của các bạn, và cũng có thể đấy là một thông điệp phát sinh từ thái
độ suy nghĩ tiến bộ hơn về vai trò của người phụ nữ, thật thế ngày nay người
phụ nữ ngày càng được mời tham gia vào các chức vụ quan trọng.
Đức DLLM : Đúng thế, người đàn bà giữ
một vai trò đặc biệt quan trọng nhằm khơi động sự nhạy cảm nơi con người, lòng
từ bi và chủ trương bất bạo động. Và đúng như ông bạn vừa nêu lên, đấy là những
gì vẫn còn chưa được triển khai đúng mức trong các xã hội tân tiến ở thế kỷ XXI
này. Các xã hội của chúng ta vẫn chỉ biết đơn thuần nêu cao các thành tích
tuyệt vời về học vấn và các khả năng trí thức và không hề biết đến là phải phát
huy các giá trị con người, chẳng hạn như lòng từ bi, sự bao dung.
Tự thiêu tại Tây Tạng
INDIGÈNE : Đối với thông điệp vừa nêu
lên thì chúng tôi cũng mạn phép xin quý vị cho biết quan điểm của quý vị như
thế nào về quyết định thật khủng khiếp của một ni sư ba mươi lăm tuổi là Palden
Choesang đã tự thiêu vào ngày 3 tháng 11, năm 2011 vừa qua nơi tu viện Gaden
Choeling trong tỉnh Tứ Xuyên. Vị lãnh đạo của một tăng đoàn quan trọng nhất ở
Dharamsala (thành
phố thuộc tây bắc Ấn Độ, nơi thiết đặt chính phủ lưu vong của Tây Tạng)
thuộc tu viện Kirti thì cho đấy là một "hành động tối thượng của lý tưởng bất-bạo-động"
(3).
Đức ĐLLM : Đây là một câu hỏi thật hết
sức nghiêm trọng, thật khó để giải đáp. Và thật ra thì cũng hết sức nhạy cảm để
có thể trả lời một cách thỏa đáng, nhất là chính quyền Trung Quốc - đương nhiên phải
liên hệ đến biến cố này - lại đang canh chừng xem tôi tuyên bố như thế nào về
vấn đề này. Họ luôn sẵn sàng bóp méo những lời phát biểu của tôi và lên án tôi.
Đối với quan điểm của Phật Giáo thì nên tự hỏi những động cơ nào đã thúc đẩy
các nhà sư cũng như các ni sư phải tự nguyện thực thi những hành động ấy. Về điểm
này thì tôi có thể trả lời được: các nguyên nhân thúc đẩy họ nhất định vượt xa
hơn lãnh vực cá nhân và gia đình họ. Họ không hy sinh sự sống của mình chỉ vì
những quyền lợi cá nhân. Động cơ thúc đẩy họ cao cả hơn, chân thật hơn, trong
đầu lúc nào họ cũng âu lo đến sự sống còn của Tây Tạng, của Phật Giáo và các quyền
hạn chính trị và văn hóa của mình. Có thể bảo rằng động cơ thúc đẩy họ là chính
đáng. Thế nhưng nếu tôi nói lên những điều ấy thì tức khắc người Trung Quốc sẽ bảo rằng: "Đạt-lai
Lạt-ma tán dương việc tự thiêu, và còn xúi dục các người khác tham gia thêm vào
việc hy sinh ấy nữa !". Rất khó cho tôi biện bạch. Thế nhưng nếu tôi nói
ngược lại, thì quý vị hãy tưởng tượng xem là bạn bè và gia đình của những người
ấy sẽ buồn khổ như thế nào khi nghe thấy: Đạt-lai Lạt-ma không chấp nhận cho các
nhà sư và các ni sư hy sinh đời mình vì quê hương Tây Tạng! Câu hỏi của quý vị quả
là hết sức tế nhị cho tôi.
S. H. : Tại sao chúng ta lại không
thể nói lên được là trách nhiệm gây ra các hành động tự tử không thuộc vào
những người tự thiêu mà đúng ra là của những người không cho phép họ được tiếp
tục sống?
INDIGÈNE : Một người bạn của Ngài là
giáo sư người Mỹ Robert Thurman (4) có nói rằng nếu như dân chúng Trung Quốc được phép trông thấy
trước mắt họ người ni sư trẻ cháy như một ngọn đuốc thì toàn bộ hệ thống cai
trị hiện nay sẽ sụp đổ ngay.
Đức ĐLLM : 1,3 tỉ người Trung Quốc tuyệt đối có quyền
được biết sự thật và cũng tuyệt đối có quyền tự mình xét đoán những gì là đúng
hay không đúng. Việc kiểm duyệt nhằm mục đích kiểm soát và duyệt bỏ là một hành
vi thiếu đạo đức. Chính quyền Trung
Quốc không đủ can đảm để đối đầu với sự thật mà chỉ biết đàn
áp bằng súng đạn, xâm lược và tuyên truyền bóp méo sự thật. Từ khi người Trung Quốc chiếm đóng (Tây Tạng) tức
là kể từ năm 1960 đến nay và theo tài liệu của chúng tôi cho biết thì hơn một
triệu người Tây Tạng đã bị giết, hoặc chết trong các trại tập trung, hoặc chết vì
đói khát. Các hồ sơ quân sự của Trung
Quốc thì cho biết là từ tháng 3 năm 1959 đến tháng 9 năm 1960
riêng trong vùng Lhassa đã có 87 000 người chết. Mặc dù phải gánh chịu
không biết bao nhiêu đau thương thế nhưng lúc nào chúng tôi cũng vẫn quyết tâm
giữ vững chủ trương bất-bạo-động. Chính sách đó của chúng tôi đã mang lại hiệu
quả : trong vòng hai năm nay và theo các thống kê của chúng tôi thì đã có không
dưới hai nghìn bài viết bằng tiếng hoa và do người Trung Quốc viết, nhằm ủng hộ
những gì mà chúng tôi gọi là "Con Đường Trung Đạo", và đấy cũng là một cách gọi khác đi
của hiện tượng tương liên, và các bài viết cũng chỉ trích thật nặng nề chính phủ
của họ. Gần đây tôi có nhận được lá thư của một người Trung Quốc trẻ tuổi có kiến
thức cao ở Bắc Kinh, người này cho biết trước đây vì bị chính quyền Trung Quốc tuyên truyền nên đã
tin rằng Đạt-lai Lạt-ma là một người ly khai, một người muốn dành lại độc lập.
Người này cho biết thêm là mình đã may mắn được gặp một người Tây Tạng từ Ấn Độ
đi hành hương tại một thánh địa Phật Giáo ở Trung Quốc và người này đã kể chuyện cho biết là
Đạt-lai Lạt-ma nào có tìm cách để dành lại độc lập đâu mà chỉ nhằm bảo vệ văn
hóa Tây Tạng. Người Trung Quốc
trẻ tuổi này viết thư cho tôi và cho biết là từ nay sẽ hết lòng ủng hộ tôi, và
nếu như sự thật đó được tất cả các người Trung Quốc biết thì tất cả 100% trong
số họ cũng sẽ ủng hộ tôi mà thôi. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nắm trong tay một
lực lượng quân sự cực mạnh, thế nhưng trong lòng họ thì lúc nào cũng đầy ắp sợ
hãi. Tinh thần của người Tây Tạng chúng tôi mạnh hơn họ nhiều, quả thật không
có một chút nghi ngờ nào về điểm này!
Sức mạnh to lớn của cái gọi là "Chúng
Ta"
S. H. : Thế giới không biến chuyển một
cách nhanh chóng như chúng ta hằng mong mỏi, thế nhưng thật ra thì nó cũng đang
thay đổi. Thông điệp của Ngài là một thông điệp mang lại sự tin tưởng và lòng
can đảm. Riêng tôi thì tôi cũng cố gắng nói lên điều đó mỗi khi tôi có dịp tiếp
xúc với giới trẻ và bằng khả năng giới hạn của mình mà thôi. Tôi nói với họ
rằng hoàn cảnh tuy chưa thật thuận lợi, thế nhưng không nên đánh mất lòng tin
và sự nhiệt tâm của mình, và luôn phải tìm cách để chứng tỏ lòng can đảm ấy của
mình. Mọi sự rồi sẽ dần dần thay đổi, hoặc cũng có thể sẽ xảy đến một cách bất
thần. Điều quan trọng nhất là không nên hành động một mình mà phải luôn sát
cánh với các người khác. Thế hệ trẻ thuộc vào đầu thế kỷ XXI này được thừa
hưởng nhiều lợi điểm hơn so với chúng ta trước đây nhiều. Ngày còn trẻ may ra thì
đôi khi chúng ta cũng có thể điện thoại cho nhau, thế nhưng nào có biết e-mail,
iPad, v.v... là cái gì đâu ? Ngày nay, con tôi, cháu tôi và cả chắt của
tôi nữa, đứa nào cũng sử dụng các thứ ấy. Một lời nói đúng hay một hình ảnh gây
ra xúc động mạnh ngày nay có thể truyền đi khắp thế giới một cách nhanh chóng.
Đức ĐLLM : Thật thế các kỹ thuật tân
tiến ngày nay quả đúng là một lợi điểm thật to lớn.
S. H. : Cái xã hội tân tiến của chúng
ta thật ra hết sức mong manh. Cứ tưởng chừng như nó đang sụp đổ đến nơi. Chính
vì thế nên biết đâu sự biến đổi cũng có thể xảy ra nhanh chóng hơn so với các
thế kỷ trước đây. Phải mất biết bao nhiêu thế kỷ tranh đấu để con người dám nói
lên về nhân quyền? Bốn hay năm thế kỷ? Thưa Ngài Thánh Thiện, Ngài có một lợi
điểm vô cùng lớn lao là được thừa hưởng những giá trị tinh thần lưu lại đã từ
hàng nghìn năm, và sức mạnh của các giá trị ấy không có gì có thể lay chuyển
được, bằng chứng là qua biết bao nhiêu thế kỷ thử thách thế nhưng cái tinh thần
ấy vẫn vững mạnh và còn đó. Đối với chúng tôi thì nào chúng tôi có thừa hưởng được
những thuận lợi như thế đâu. Chúng tôi chỉ biết trông cậy vào những gì xảy ra vào
thế kỷ XVI, bởi vì vào thế kỷ này thì Âu Châu mới bắt đầu thay đổi, và chiều
hướng đó ngày càng trở nên rõ rệt hơn nhờ vào các cuộc cách mạng Pháp, Hoa Kỳ và Nga Sô. Dù bằng cách nào
đi nữa thì lịch sử của chúng tôi cũng chỉ được hình thành một cách tuần tự. Thế
nhưng đối với Ngài thì tôi có cảm giác rằng Ngài đang bình chân trên một mảnh
đất thật vững chắc, một nền tảng thật lâu đời đã từ nghìn năm lưu lại.
Đức ĐLLM : Truyền thống tín ngưỡng Do Thái
và Ki-tô Giáo cũng rất lâu đời! Riêng cá nhân tôi thì tôi vẫn tin rằng các anh chị
em thuộc Ki-tô Giáo đã mang lại thật nhiều lợi ích quý giá trong các lãnh vực
giáo dục và sức khoẻ khắp nơi trên thế giới. Những gì Phật Giáo thực hiện được thì
rất là ít. Đối với Hồi Giáo thì khá giới hạn và Ấn Giáo cũng thế. Gần đây tôi
có tham dự lễ kỷ niệm ngày mất của mẹ Theresa tại Calcutta, tôi mượn dịp này để
nêu lên là sở dĩ bà đã có được sức mạnh nội tâm và lòng quả cảm như thế ấy là
nhờ vào tín ngưỡng Ki-tô Giáo và tình thương yêu của bà đối với Thượng Đế. Thật
hết sức kỳ thú khi cảm thấy mình được đến gần với Trời, thế nhưng ngược lại thì
điều đó cũng sẽ khiến cho chúng ta không quan tâm đúng mức đến việc phải cải
biến chính tâm thức mình. Đối với Phật Giáo thì Đức Phật đã từng nói với tất cả
các đệ tử như sau : "Không nên chỉ biết dựa vào sự sùng kính và đức
tin để chấp nhận giáo huấn của Ta, mà chỉ nên chấp nhận nó khi nào đã nghiên
cứu nó thật cẩn thận". Phép tu tập đó sẽ giúp chúng ta biết ý thức nhiều
hơn đến trách nhiệm của chính mình: Thượng Đế của các tín ngưỡng Do Thái
và Ki-tô Giáo thì nhận lãnh tất cả trách nhiệm về mình (về những gì do mình sáng tạo và những gì xảy
ra), thế nhưng Đức Phật thì lại đặt trách nhiệm lên hai vai của các
đồ đệ của Ngài!
S. H. : Xin cám ơn Ngài đã nhắc nhở cho
chúng tôi biết là phải tập gánh vác trách nhiệm của con nguời.
Đức ĐLLM : Vâng đúng thế, chúng ta có
thể đem ra áp dụng nguyên tắc tương liên nhằm phát động cái gọi là "Chúng
Ta" thật to lớn đó, tức gồm toàn thể cả địa cầu này. Cái "Chúng Ta"
ấy đáng giá hơn nhiều so với cả một tòa tháp "Chọc Trời". Thế nhưng
hiện tại thì chúng ta vẫn còn bị chi phối bởi tình trạng cách biệt giữa "chúng
ta" và "người khác". Cái biên giới chia cách đó bắt rễ quá sâu trong
tâm thức chúng ta khiến cho chúng ta chỉ biết nghĩ đến quyền lợi của riêng mình
mỗi khi có tranh chấp, và đôi khi còn tệ hơn nữa tức là còn tìm cách khai thác
hay hăm dọa cả những người láng giềng của mình nữa. Đấy là nguồn gốc sinh ra bạo-lực
và chiến tranh. Dù sao đi nữa nếu biết ý thức được ý nghĩa của tình huynh đệ
toàn cầu là gì thì con tim mình nhờ đó cũng sẽ mở rộng ra một cách tự nhiên hơn.
Chúng ta cũng sẽ biết hành động sáng suốt và ngay thật hơn, để mang lại cho
chúng ta sức mạnh nội tâm và sự tự tin, tự tin nơi mình và đối với người khác
nữa, và đấy cũng là cách giúp mình phát lộ được tình nhân ái. Tôi thường nhớ
lại khoảng thời gian sáu mươi năm sau này trong cuộc đời tôi, trong cái khoảng
thời gian đó tôi đã từng trải qua không biết bao nhiêu sóng gió. Tôi đã từng
phải chịu đựng nhiều thảm trạng cũng như các cảnh huống thật nặng nề, thế nhưng
dù sao đi nữa thì tôi vẫn chưa được nếm mùi của những ngày tháng mà ông bạn của
tôi đã bị giam cầm trong các trại tập trung...
S. H. : Cái thời gian đó cũng không đến
nỗi quá dài trong trường hợp của tôi... Vì thật ra thì tôi cũng chỉ bị nhốt trong
trại tập trung có mười tháng!
Đức ĐLLM : Tất cả các khó khăn đến nay vẫn
còn nguyên vẹn, và cả sự sợ hãi nữa, thật là điều đáng buồn. Dù sao đi nữa thì trong
những lúc ấy tôi vẫn cảm thấy tâm thức tôi luôn trong tình trạng an bình.
Một ngành khoa học lâu đời của nước
Ấn
S. H. : Làm thế nào mà Ngài lại có
thể giữ được một tâm thức an bình bất chấp mọi khó khăn ?
Đức ĐLLM : Tôi muốn nhắc nhở mọi người
hai điều như sau : trước hết hãy biết sử dụng trí thông minh của mình hiệu
quả hơn. Bất cứ đối với một hoàn cảnh nào thì cũng đều có thể hình dung nó dưới
nhiều khía cạnh khác nhau. Thí dụ như đối với trường hợp của tôi, thì trước hết
tôi có thể bảo rằng : tôi đã đánh mất quê hương tôi rồi, tôi sống phần lớn
cuộc đời tôi trong cảnh lưu vong, kiếp sống của một kẻ tị nạn. Thế nhưng tôi
cũng có thể bảo rằng: nhờ đó tôi đã khám phá ra cả thế giới này, tôi có thể
giao tiếp với tất cả mọi người mà không cần đến một thứ nghi lễ nào cả. Nếu như
tôi vẫn còn ở trong lâu đài Potola ở Lhassa, thì nhất định tôi sẽ bị cô lập bởi
các thứ nghi lễ hoàn toàn vô ích. Điều thứ hai mà tôi có thể hình dung ra được đấy
là hơi ấm của con tim tôi. Thật thế hiện nay chúng ta đang bị chi phối bởi một
tình trạng chia cách giữa "chúng ta" và "người khác". Cái
ranh giới đó đã bắt rễ quá sâu vào tâm khảm chúng ta, tách rời chúng ta ra khỏi
sự cảm nhận về tình huynh đệ toàn cầu.
S. H. : Trên phương diện lý trí thì
Ngài quá cao cường, Ngài hiểu biết quá nhiều, nhiều hơn tôi gấp bội. Ngài đã
từng giao tiếp với các nhà thần kinh học thật tân tiến và Ngài cũng nhận thấy là
những khám phá của họ rất gần với những kinh nghiệm cảm nhận của chính Ngài.
Đức ĐLLM : Họ khám phá ra rằng sự giận
dữ, sợ hãi, và hận thù thường xuyên tàn phá hệ thống miễn nhiễm của chúng ta. Trong
khi đó thì chúng ta lại phải cần đến một thể dạng tâm thần bình lặng nhằm mang
lại sức khoẻ cho thân xác và an vui cho tâm thần chúng ta.
S. H. : Thật thế, chính sự giận giữ, sợ
hãi và hận thù sẽ mang lại mọi thứ bệnh tật...
Đức ĐLLM : Đã từ hơn hai mươi năm nay, tôi
vẫn thường xuyên bàn luận với các khoa học gia. Theo họ thì các kinh nghiệm
hiểu biết lâu đời của Ấn Độ về tri thức, tâm thức, xúc cảm... thật vô cùng giá
trị. Con số các khoa học gia này ngày càng đông hơn và càng tỏ ra tha thiết hơn
trong việc tìm hiểu thêm về các lãnh vực trên đây. Phật Giáo tìm hiểu và nghiên
cứu tâm thức dựa vào ngôi thứ nhất (bằng phép nội quán và thiền định). Qua bao thế
kỷ nay, chúng tôi (những người Phật Giáo) đã dày công luyện tập nhằm phát huy sự
chú tâm để giúp theo dõi sự vận hành của các thể dạng cảm nhận tâm thần. Chúng
tôi sử dụng các kỹ thuật nghiên cứu, phép nội quán, sự suy tư..., đấy là các
phép luyện tập thật hoàn hảo vì đã được triển khai dựa vào những kinh nghiệm
thu thập được qua hàng nhiều thế kỷ. Thiền định là kỹ thuật quan trọng hơn cả.
Kỹ thuật ấy không biểu trưng cho một phép tu tập mang tính cách tín ngưỡng nào
cả, mà đúng hơn đấy chỉ đơn giản là một sự luyện tập kiên trì nhằm mục đích giúp
quan sát và phát huy tâm thức.
S. H. : Tình thương và hận thù là hai
sức mạnh quan trọng nhất. Vậy làm thế nào để có thể loại bỏ hận thù? Tất cả
chúng ta đều cảm thấy hận thù vào một lúc nào đó trong cuộc sống của mình.
Đức ĐLLM : Một tấm bản đồ về tâm thần có
thể giúp được việc đó. Tấm bản đồ này đã được thực hiện chung với một số các bạn
hữu khoa học gia của tôi, họ là những con người thật hết sức khác thường, chẳng
hạn như Francisco Verala, "Richie", Matthieu Ricard (5)..., họ đã góp
phần một cách thật tích cực vào việc thực hiện các tấm bản đồ trên đây nhờ sự
hiểu biết về kỹ thuật và các kinh nghiệm phong phú của họ : ngày nay sự vận
hành của tâm thức có thể theo dõi được trong từng phần ngàn của một giây, và
từng milimét trong não bộ. Nếu có thể theo dõi một cách minh bạch và nắm vững được
sự vận hành chính xác của toàn bộ tâm thức thì chúng ta cũng sẽ có thể phát huy
được dễ dàng những xúc cảm tích cực, chẳng hạn như lòng từ bi, sự tha thứ, đồng
thời thu hẹp tác động của những thứ xúc cảm tàn phá, chẳng hạn như sự giận dữ, nghi
ngờ, sợ hãi, hận thù..., nói một cách khác là giúp thay đổi tính khí của mình. Xin
nhắc lại một lần nữa rằng đấy cũng chẳng phải là một thứ giáo huấn mang tính
cách tín ngưỡng, mà chỉ đơn giản là một khoa học tâm thần. Hận thù có phải là
trường hợp đã từng xảy ra cho ông hay chăng khi ông bị nhốt trong trại tập
trung, nhất định là lúc ấy ông phải cảm thấy hận thù những người quốc xã...
Không chống gậy cũng chẳng hận
thù
S. H. : Không, hận thù thì nhất định
là không...
Đức ĐLLM : Tôi tin vào lời ông nói! Bởi
vì vào tuổi của ông mà ông không chống gậy thì đấy chính là bằng chứng cho thấy
thể dạng tâm thần của ông thật thanh thản và an bình. Và cũng nhờ đó mà sức
khoẻ của ông vẫn còn tốt. Về chuyện này thì tôi có thể đoan chắc được!
S. H. : Tôi xin kể hầu Ngài một câu chuyện thật
vô cùng kỳ thú đã từng xảy đến với tôi. Vào năm 1943, lúc đó tôi đang ở Paris và
là một nhân viên tình báo, và rồi tôi bị bắt. Người ta dí một khẩu súng ngắn vào
lưng tôi. Tôi nghĩ rằng : "Thế là xong, họ sắp giết tôi
đây", không có một lý do gì họ lại tha tôi: tôi là một tên điệp viên ngoại
quốc (Stéphane
Hessel là người Đức gốc Do Thái - mẹ người Đức và cha là người Do Thái),
họ là những kẻ chiến thắng, họ vừa đoạt được phần thắng trong một cuộc chiến. Trong
một chớp mắt tôi cảm thấy một sự tách rời nào đó đã xảy ra giữa tinh thần và thể xác. Thể
xác trở nên mềm yếu, thế nhưng tâm thần thì vẫn rộng mở. Kinh nghiệm cảm nhận ấy
thật hết sức lạ lùng đối với tôi. Tuy thế cái giây phút ấy không kéo dài, vì
người ta mang tôi đi và sau đó thì chỉ hỏi cung tôi. Thế nhưng cái giây phút ấy
luôn còn đó và biết đâu Ngài cũng có thể đã từng nghĩ thầm như tôi: "À,
cái chết hóa ra là như thế đấy!" Thế nhưng hóa ra thì Ngài vẫn còn sống!
Tôi vẫn còn đây. Tôi vẫn sống còn.
Đức ĐLLM : Không phải ông chỉ đơn giản sống còn, mà ông
đã sống còn với tất cả nhân phẩm của chính mình. Ông không hề tỏ ra oán hận kẻ
thù của ông. Có một phép tu tập Phật Giáo nêu lên một phương cách như
sau: "Kẻ thù của ta chính là người thầy quý nhất của ta". Người
thầy đó dạy cho ta cách luyện tập về lòng tha thứ và sự kiên nhẫn, đấy là những
gì thật thiết yếu giúp chúng ta luôn giữ được sự quyết tâm của mình. Bao giờ lúc
đầu thì chúng ta cũng rất hăng say, thế nhưng nếu không kìm hãm được sự nóng
nảy thì cũng có thể sẽ đưa đến hận thù, sợ hãi và nghi ngờ. Sự tha thứ không
phải là dấu hiệu của sự yếu đuối mà đúng hơn là một sức mạnh. Nếu chúng ta càng
tự tin nơi mình thì lòng khoan dung cũng sẽ dễ hiện ra với mình hơn. Sự giận dữ
chỉ là dấu hiệu của yếu hèn.
Hố chia cách giữa kẻ nghèo và
người giàu
S. H. : Thật đáng buồn là trên địa
cầu này vẫn có một số người phải thốt lên rằng: "Chúng tôi không được
hưởng những gì khả dĩ tương xứng với quyền hạn của chúng tôi. Chúng tôi phải
chịu cảnh đói nghèo, thật quả là vô phước cho chúng tôi. Hãy thử nhìn vào các người
khác thì sẽ thấy ngay, họ là những người tư bản, hoặc những người đang nắm
quyền hành trong tay, chúng tôi vô cùng thù ghét họ, chúng tôi chỉ muốn tận diệt
hết những người ấy... ». Thật thế, nếu muốn mở rộng tâm thức và con tim
mình thì nào có phải là một chuyện dễ đâu.
Đức ĐLLM : Tôi vẫn còn nhớ lần đầu tiên
tôi viếng thăm Âu Châu vào năm 1973. Một hôm ở Genève, tôi cảm thấy bị chấn
động mạnh vì có một người Anh khá phong nhã bảo với tôi rằng tôi sẽ chẳng có hy
vọng gì khi trông cậy vào các thế hệ lớn tuổi (thế hệ trên trước và giàu có, ám chỉ người
tây Phương và các nước Tây Phương) vì tinh thần của họ quá chật hẹp
và cứng nhắc. Thật thế từ đấy đến nay cái hố sâu giữa người giàu và kẻ nghèo ngày
càng trở nên sâu thêm (một cách nói khéo nhằm ám chỉ các quốc gia giàu có và các
quốc gia nghèo đói). Vào thời bấy giờ con người sống khá lẻ loi (các quốc gia Tây
Phương tự cô lập mình), và cũng vì thế mà họ luôn cảm thấy mất an
ninh. Các xã hội Tây Phương từ lâu đã đạt được các tiêu chuẩn khá cao thế nhưng
không hề chìa tay ra để nâng đỡ kẻ khác. Cách suy nghĩ của chúng ta bao giờ
cũng thế, chẳng có gì mới lạ cả, cũng vẫn là sự ngăn cách giữa "chúng ta"
và "kẻ khác". Cái hố cứ ngày càng sâu thêm. Sức mạnh khủng khiếp của
các thể chế kinh tế cứ chi phối sự sinh hoạt của toàn thể xã hội, sự nghèo đói cứ
ngày càng tạo ra thêm các cảnh khốn quẩn cho những người bần cùng. Đấy là những
gì bắt buộc chúng ta phải tìm cách biến nền kinh tế hiện hành thành một một nền
kinh tế xây dựng trên lòng từ bi, một nền kinh tế biết quan tâm đến nhân phẩm
và công lý và phải được áp dụng cho tất cả mọi người, đúng theo những gì đã
được nêu lên trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền. Bất cứ ở đâu phát sinh
ra tình trạng nghèo đói thì ở đấy cũng sẽ xuất hiện những mối hiểm nguy làm
phương hại đến sự hài hòa trong xã hội, hạ thấp tình trạng sức khoẻ chung trong
dân chúng, mang lại đau thương và gây ra các cuộc xung đột vũ trang và chiến
tranh toàn diện. Không phải chỉ biết nhân danh đạo đức để lên án tình trạng
nghèo đói là đủ; trên thực tế nghèo đói là một nguyên nhân bất tận đã mang lại đủ
mọi thứ khó khăn, các cuộc xung đột và cả chiến tranh. Tôi liên tưởng đến các trường
hợp như Ấn Độ và Pakistan tranh dành nhau vùng Kashmir; hoặc cuộc tranh
chấp giữ Do Thái và Palestin; và cả các cuộc khủng bố xảy ra khắp nơi... Nếu
chúng ta cứ tiếp tục lao mình theo cái đà đó thì tình trạng ấy một ngày nào đó sẽ
trở nên không còn có thể hàn gắn được nữa. Cái hố chia cách "những người
có" và "những người không có" sẽ mang lại khổ đau cho tất cả hai
bên. Chúng ta không phải chỉ biết mở rộng lòng từ bi đối với những người đang
đau khổ, mà còn phải tranh đấu tích cực hơn nhằm mang lại một sự công bằng xã
hội toàn diện hơn.
S. H. : Theo tôi nghĩ thì ngày nay sự kính
trọng tất cả mọi con người phải được xem như là một đạo luật thuộc vào nền luật
pháp quốc tế. Bởi vì chúng ta đang sống trong một thế giới mang thể chế toàn
cầu. Từ năm 1945, chúng ta tổ chức cuộc sống dựa vào Bản Hiến Chương Liên Hiệp
Quốc. Người Do Thái bảo rằng Trời cho họ quê hương của họ, trao tặng cho họ
Hebron (thánh
địa của người Do thái ở vào phía nam của thành phố Bét-lê-hem - Jerusalem).
Thế nhưng tôi muốn nói lên rằng: Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc nào có cho quý
vị cái mảnh đất ấy đâu. Quý vị là thành viên của Liên Hiệp Quốc, vậy thì phải
tôn trọng Hiến Chương ấy, tôn trọng Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế với các điều luật
nêu lên liên quan đến việc bảo vệ văn
hóa và xã hội. Luật pháp quốc tế phải được đặt lên trên các quyền lợi hẹp hòi
của một quốc gia. Khi một quốc gia không tuân thủ, chẳng hạn như Trung Quốc
không tôn trọng luật pháp quốc tế - quy định rằng tất cả mọi dân tộc đều có
quyền bảo vệ văn hóa của mình - thì phải bắt quốc gia đó phải tuân thủ luật
pháp, thay vì chỉ biết nghĩ đến các quyền lợi ích kỷ của xứ sở mình.
Đức
ĐLLM : Tất nhiên là phải như thế!
Thực thi quyết tâm bất-bạo-động
INDIGÈNE : Mùa xuân Á-rạp (phong trào đòi hỏi
dân chủ gần đây của nhiều nước Á-rập) đã cho chúng ta thấy rằng Tổng
Thống Hoa Kỳ Obama dưới một khía cạnh nào đó đã đánh giá các cuộc cách mạng ấy
là bất-bạo-động - trên thực tế thì cũng đúng đối với trường hợp của Tunisia và
Ai-cập, khi lần đầu tiên mạng lưới Internet được sử dụng rộng rãi nhằm tạo ra
một tinh thần tập thể rộng lớn - thế nhưng ngược lại thì đối với trường hợp của
xứ Lybia thì những người khởi động các cuộc can thiệp vũ trang tự cho rằng đấy
là một "cuộc chiến tranh vì nhân đạo". Cái tên gọi đó tỏ ra khá
nghịch lý. Phải chăng các đạo luật về nhân quyền phải luôn được xem là bất-bạo-động
hay không ?
Đức ĐLLM : Nhất định là như thế.
Nhân Quyền có nghĩa là sự kính trọng mạng sống và phẩm giá con người.
S. H.: Bảo vệ nhân quyền là một
cách nói lên chủ trương bất-bạo-động. Thế nhưng nếu nhân quyền bị chà đạp thì
đấy lại chính là cách đưa đến bạo-lực. Chính vì thế mà phải cần đến khái niệm
về sự "kính trọng". Đấy là những gì thật vô cùng quan trọng. Chúng ta
rất cần đến sự bao dung và kính trọng. Không có bất cứ ai có quyền bảo rằng: sở
dĩ quyền làm người "của tôi" bị xâm phạm nên tôi bắt buộc phải dùng
đến bạo lực. Cũng thế không được sử dụng sự phẫn nộ để bảo vệ bất cứ một quyền
lợi cá nhân nào cả. Bày tỏ sự phẫn nộ, thế nhưng đấy phải là cách nói lên sự phẫn
nộ của mình nhân danh các giá trị chung của con người, liên quan đến tất cả
chúng ta.
Đức ĐLLM : Nếu tình huống đòi
hỏi phải đáp ứng bằng các hành động cứng rắn, và không còn một cách nào khác,
thì khi đó các hành động dù có vẻ như mang tính cách bạo-lực, thế nhưng bản
chất thì nhất thiết là một hình thức bất-bạo-động. Trên phương diện lý thuyết
điều đó có thể hình dung được. Thế nhưng trên phương diện thực hành thì không
hề đơn giản. Muốn xác định giữa bạo-động và bất-bạo-động thì chỉ có một cách
duy nhất là phải căn cứ vào động cơ thúc đẩy mình. Đối với sự tham nhũng chẳng
hạn thì đấy là một tình trạng đã biến thành một thứ bệnh dịch trong thế giới
tân tiến ngày nay, và tôi thường gọi đấy là một hình thực bạo-lực. Bởi vì động
cơ thúc đẩy sự tham nhũng là sự gian trá, nói dối, đó là một hành động nhất
thiết mang tính cách hung bạo từ bản chất.
INDIGÈNE : Tóm lại người ta có
thể phạm vào một hành động bạo-lực với một con tim bất-bạo-động ?
Đức ĐLLM : Trên nguyên tắc thì
đúng, thế nhưng trên thực tế thì không phải là một chuyện dễ.
INDIGÈNE : Ghandi còn đi xa hơn
thế nữa khi ông bảo rằng: "Theo tôi nghĩ thì nếu thật sự bắt buộc phải
chọn lựa giữa hèn-nhát và bạo-lực và không thể làm gì khác hơn được, thì tôi
khuyên nên chọn bạo-lực". Hãy đưa ra một thí dụ, người con lớn hỏi cha là
phải làm gì đây khi trông thấy cha là nạn nhân của một cuộc mưu sát, chẳng hạn
như cuộc mưu sát năm 1908 (có lẽ người đưa ra thí dụ muốn nhắc đến biến cố vua xứ Bồ Đào
Nha - Portugal - bị ám sát vào ngày 1 tháng 2, năm 1908, và người con cả của
ông cũng bị giết trong biến cố này, lúc ấy mới 18 tuổi. Biến cố trên đây đã gây
ra nhiều xúc động khắp Âu Châu thời bấy giờ). "Tôi sẽ trả lời
rằng bổn phận của người con là phải bảo vệ cho cha mình dù phải sử dụng đến
bạo-lực" (6).
Đức ĐLLM : Phật Giáo cũng có đưa
ra một câu chuyện như sau, trong một tiền kiếp Đức Phật là một vị thuyền trưởng
lèo lái một con tàu với năm trăm người trên đó, một trong số này âm mưu giết hết
bốn trăm chín mươi chín người kia để cướp của. Sau ba lần cố gắng thuyết phục thế
nhưng vị tiền kiếp của Đức Phật không sao thuyết phục được tên cướp phải bỏ ý
định ấy. Vị này đành phải nghĩ như sau: "Nếu tôi không giết hắn thì bốn
trăm chín mươi chín người khác sẽ bị giết. Thế nhưng nếu tôi giết hắn thì tôi
phải gánh chịu hậu quả tiêu cực mang lại từ nghiệp sát nhân vì tôi phạm vào
hành động giết chết một con người để cứu bốn trăm chín mươi chín người khác, và
đồng thời thì tôi cũng gián tiếp giúp cho tên cướp không phạm vào tội giết bốn
trăm chín mươi chín nhân mạng. Hơn nữa, nếu tôi không giết người âm mưu sát nhân
thì tôi cũng phạm vào tội gián tiếp gây ra cái chết cho bốn trăm chín mươi chín
con người". Vì thế vị ấy đã phải giết tên cướp.
Chúng ta phải xét đoán tùy theo
từng trường hợp một
S. H. : Phải thận trọng! Chấp
nhận phạm tội nhằm gỡ tội cho hàng trăm người khác là những gì mà tất cả những
người chuyên quyền trong thời buổi tân tiến này thường hay sử dụng để tự bào
chữa cho mình: "Tôi phải sử dụng sự tra tấn, bởi vì nếu tôi bắt một người
nào đó phải khai ra là họ cất dấu khí giới ở đâu thì tôi sẽ có thể cứu được
hàng ngàn người khác". Theo quan điểm của tôi thì đấy là một cách lý luận nguy
hiểm bởi vì nếu cho rằng việc sử dụng bạo-lực là một việc cần thiết thì đấy sẽ là
cách bắt buộc chúng ta phải tha thứ cho những người vi phạm vào các hành động hung
bạo. Người ta có thể nhân danh nhân quyền để phạm vào sự hung bạo nhằm chống
lại các sự bạo ngược mà chúng ta cảm thấy bất lực, thay vì trước hết phải tìm
cách ngăn chận không cho các sự bạo ngược ấy có thể bùng lên. Những sự bạo
ngược đó sở dĩ được đem ra thực thi ấy cũng là vì các quyền lợi ích kỷ được đặt
lên trên sự đau khổ của nhiều dân tộc. Nói một cách tổng quát hơn thì nếu sử
dụng sự hung bạo để chống lại một kẻ nào đó thì sẽ thật hết sức khó để mà bào
chữa, thế nhưng nếu đấy là một sự hung bạo đối với chính mình thì đôi khi cũng
có thể gây ra một sự chấn động đưa đến một sự thay đổi lớn, chẳng hạn như trong
trường hợp xảy ra tại Tunisia khi một người bán hàng rong trẻ tuổi tên là
Mohamed Bouazizi (7) tự thiêu. Thật thế chúng ta không thể biết trước được
nguyên nhân đích xác của sự thay đổi là gì, thế nhưng chúng ta cũng có thể xác
định được rằng sự thay đổi thường thì khởi sự một cách từ từ, và rồi bỗng nhiên
một cái gì đó hay một người nào đó - như Gorbatchev (8) chẳng hạn -, vụt biến thành
một nhân tố then chốt góp phần thúc đẩy việc thay đổi nhanh hơn, và đấy cũng là
trường hợp đã xảy ra với Nelson Mandela (9). Rất có thể là các nhân vật ấy là
những người hiểu rộng và thấy xa, hoặc cũng có thể là do tình thế đột nhiên biến
chuyển. Tôi đoan chắc rằng một ngày nào đó Trung Quốc cũng sẽ phải thay đổi một
cách tuần tự hay đột ngột hơn, do một người nào đó gây ra bằng một hành động thật
bất ngờ, thí dụ như trường hợp tự thiêu chẳng hạn.
Đức ĐLLM : Tôi hoàn toàn đồng ý,
chính vì thế nên tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm rằng đấy là "trên mặt lý
thuyết", đối với việc thực hành thì lại hết sức phức tạp và thường thì không
thể chủ động được. Sự bạo ngược trong hầu hết các trường hợp xảy ra là do sự
độc tài của các chế độ không dân chủ. Chúng ta phải xét đoán các cảnh huống
phức tạp theo từng trường hợp một, chúng ta không thể xét đoán một cách tổng
quát được. Rất nhiều những khó khăn mà chúng ta gặp phải ngày nay chẳng qua là
do sự sơ suất của chúng ta trong quá khứ mà ra. Sau cùng tôi cũng muốn nói thêm
vài lời về sự khác biệt thật lớn giữa bạo-động và bất-bạo-động: việc sử dụng
bạo-động sẽ mang lại những hậu quả không thể lường trước được. Mọi sự tệ hại
nặng nề nhất sẽ có thể xảy ra. Người ta không thể nào biết trước cũng không thể
chủ động được hậu quả của bạo-lực, chẳng hạn như gần đây tại Iraq và Lybia, quả
thật đấy là những trường hợp thật khủng khiếp. Đối với bất-bạo-động, đôi khi
kết quả mang lại dù có chậm, thế nhưng các mối hiểm nguy sẽ tương đối ít xảy ra
hơn và nhất thiết có thể tiên đoán trước được.
S. H. : Theo tôi thì phải phân
biệt thật rõ rệt một bên là bạo-lực, một bên là sự quyết tâm, sự tự tin và lòng
dũng cảm. Chúng ta có thể hoàn toàn tự tin nơi mình, tìm thấy sự can đảm cho
mình, thế nhưng đồng thời thì nhất định không chấp nhận bạo-lực. Phong trào phẫn
nộ nổi lên khắp nơi ngày nay đã nói lên điều gì? "Chúng tôi mang một số
giá trị nào đó, chúng tôi không bán rẻ những giá trị ấy. Chúng tôi quyết tâm
thế nhưng chúng tôi không sử dụng bạo-lực". Mandela, Václav Havel (10),
Martin Luther King (11), và cả Gandhi
nữa - tất cả đều nói lên: "Hãy quyết tâm, can đảm, liều lĩnh, sẵn sàng hy
sinh sự sống của mình nếu cần, thế nhưng không bao giờ được giết bất cứ một
người nào!" Chuyện ấy có thể hoặc cũng không có thể thực hiện được? Tôi
cũng không thể hiểu được, vậy theo Ngài thì như thế nào ?
Đức ĐLLM : Vào năm 1959, khi tôi
rời khỏi Tây Tạng dưới sự chiếm đóng của Trung Quốc để vượt sang Ấn xin tị nạn,
thì nhiều môn đệ của Gandhi thời bấy giờ khuyên tôi nên tổ chức chống lại ngay
trên đất Tây Tạng, tương tự như Gadhi đã làm trên đất Ấn. Tôi đã trả lời với họ
rằng dù cho chủ nghĩa đế quốc Anh có thật tồi tệ đi nữa thì vẫn còn là một
chính phủ được đưa lên dựa vào các giá trị dân chủ: tức là một hệ thống pháp lý
tương đối độc lập, quyền tự do phát biểu được tôn trọng và một nền báo chí tự
do được bảo đảm. Gandhi trong lúc đang bị giam trong ngục vẫn có thể nói lên
tiếng nói của mình và viết được những bài báo. Đối với các chủ nghĩa đế quốc
tân tiến ngày nay, chẳng hạn như trường hợp của cộng sản Trung Quốc thì dân chủ
không hề có, không quy tắc cũng chẳng luật pháp. Sự khác biệt là chỗ đó. Tuy
nhiên tôi vẫn quyết tâm phải tiếp tục chiến đấu nhằm bảo vệ các quyền lợi của
chúng tôi bằng phương pháp bất-bạo-động, mặc dù một số những người trẻ Tây Tạng
cho rằng chúng tôi quá thụ động. Họ bảo rằng : "Từ năm 1959 đến nay đã hơn
năm mươi năm thế mà chẳng có gì xảy ra cả". Tôi trả lời với họ rằng:
"Hãy nhìn vào số người Trung Quốc ngày càng đông đã bày tỏ sự đoàn kết với
chúng ta". Sự hỗ trợ đó của dân tộc Trung Quốc là một sự chiến thắng quan
trọng. Nếu như trước đây chúng tôi sử dụng bạo-lực thì sự hỗ trợ đó biết đâu sẽ
không hề xảy ra được. Dù sao đi nữa, sự trường tồn của một chính phủ gồm những kẻ
độc tài cũng sẽ không kéo dài lâu được, và người Trung Quốc thì lúc nào cũng vẫn
còn đó trên quê hương của họ. Những kẻ độc tài thì một ngày nào đó cũng sẽ phải
biến mất, dù cho phải chờ đến mười nghìn năm thì cũng chẳng sao!
Sự tiến bộ khoa học và sự tiến
bộ tinh thần
INDIGÈNE : Albert Camus (12),
một văn hào người Pháp đạt giải Nobel văn chương năm 1957 đã từng tuyên bố như
sau : "Tôi có dịp nghiên cứu về chủ thuyết bất-bạo-động và tôi có thể cho
rằng đấy là những gì biểu trưng cho một sự thật rất xứng đáng để được mang ra
quảng bá. Thế nhưng cũng cần phải nhờ đến một uy thế lớn lao nào đó mà tôi
không có được".
S. H. : Ông ta quả là một người
khiêm tốn khi nói rằng :"Tôi rất muốn tỏ ra bất-bạo-động, thế nhưng điều ấy
lại đòi hỏi phải có một tinh thần thật cao mà tôi thì lại không có được"; ông
ta cũng có thể phát biểu như sau: "Tôi không đủ can đảm để có thể sống
bằng bất-bạo-động". Thật thế cần phải hội đủ nghị lực hầu có thể giúp mình
sống với bất-bạo-động. Nếu chúng ta lâm vào một cảnh huống mà chúng ta cứ muốn
sử dụng bạo-lực, thì trong tình thế đó nếu thật sự muốn vượt lên trên ý định ấy
thì cần phải có một tinh thần thật cởi mở và rộng lớn. Ông ta (tức A. Camus)
sống ở Algeria vào thời kỳ đang xảy ra những cuộc xung đột giữa hai nước Pháp
và Algeria, và về phía người dân Algeria thì họ phải dấn thân vào một cuộc chiến
dành lại độc lập. Ông ta nói rằng: "Tôi không hội đủ sức mạnh để có thể
trở thành như Gandhi". Điều ấy cho thấy thật rõ ràng là muốn thực thi
bất-bạo-động thì không những phải cần đến trí thông minh mà còn phải có một con
tim nữa.
Đức ĐLLM : Một lương tâm trong
sáng và thật mạnh.
INDIGÈNE : Vậy người ta có thể mang
bất-bạo-động ra để giảng dạy hay không?
Đức ĐLLM : Việc hợp tác của
chúng tôi với các khoa học gia đã bắt đầu mang lại kết quả. Cách nay hai năm
tại thành phố Montréal thuộc tỉnh Québec, nhiều vị lãnh đạo trong đại học cũng
như nhiều vị giáo sư đã từng hội họp với nhau để đưa ra một giáo trình: nhằm giảng
dạy về lòng từ bi trên phương diện thế tục. Tôi được mời và cũng đã tham dự. Đấy
là một chủ trương đi ngược lại với nền giáo dục hiện đại ngày nay không hề biết
chú tâm đến việc giảng dạy đạo đức. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ cách đây đã nhiều
năm khi tôi phát biểu trong một buổi diễn thuyết vấn đề đạo đức mang tính cách thế
tục thì có một vị mục sư tin lành người Đức đã chống lại tôi ngay: "Bất cứ
một nền đạo đức nào cũng phải dựa vào tôn giáo". Tôi cũng nhận thấy quan
điểm đó nơi một trong số các người bạn Hồi Giáo của tôi; dưới con mắt của người
này thì không thể nào có đạo đức được nếu không có tôn giáo. Nếu quả thật là
như thế, thì sẽ không thể nào hình dung ra được một sự giảng dạy chung cho cả
hai nhóm: có-đức-tin và không-có-đức-tin, tức cũng có nghĩa là không thể nào có
thể có một nền giáo dục mang tính cách toàn cầu được. Tuy nhiên tôi vẫn tin
rằng không cần phải có đức tin cũng vẫn có thể phát huy được các phẩm tính con
người, chẳng hạn như lòng từ bi, sự bao dung và sự thanh liêm, bằng cách dựa
vào nền tảng của các giá trị không nhất thiết phải phát sinh từ tôn giáo. Tôi
cho rằng các giá trị đạo đức thế tục mang tính cách toàn cầu ấy tự chúng cũng hội
đủ các tiêu chuẩn cần thiết. Theo Hiến Pháp của Ấn Độ thì chữ thế tục trên đây không
hề mang ý nghĩa khinh thường (irrespect / disrespect / thiếu tôn tọng, bất kính)
hay là không-kính-trọng (non-respect / non-compliance / không thừa nhận)
tôn giáo. Hơn nữa lại còn ngược hẳn lại, đấy là một hình thức kính trọng tất cả
các tôn giáo và kể cả những người không-đức-tin. Ngày nay, càng ngày càng có
nhiều nhà giáo và các khoa học gia mang ra thử nghiệm nền giáo dục thế tục đó
và họ đã gặt hái được nhiều thành quả tích cực. Năm tới đây tại thành phố New
Delhi ở Ấn Độ, tất cả chúng tôi sẽ họp nhau lại tại một trường đại học cùng với
các vị giảng huấn đã chia sẻ một mối quan tâm với chúng tôi, nhằm nghiên cứu
thật nghiêm chỉnh để tìm cách xem phải làm thế nào để đưa sự giảng dạy đạo đức
mang tính cách thế tục vào một hệ thống giáo dục tân tiến ngày nay. Tôi hy vọng
trong vòng một đến hai năm nữa chúng tôi sẽ có thể đưa ra các đề nghị thật cụ
thể. Chúng tôi bắt đầu tại Ấn Độ bởi vì tinh thần thế tục đó của Ấn độ rất tinh
khiết và đã trở thành một tập quán của quốc gia này đã từ bao thế kỷ nay. Tinh
thần thế tục ấy đã ăn sâu vào nền văn hóa của Ấn Độ, và cũng đã được ghi vào
Hiến Pháp. Nước Ấn luôn xem đấy là một nguyên tắc mang tính cách thiêng liêng
trong hệ thống chính trị của mình.
INDIGÈNE : Vậy thì người ta có nên
nghĩ đến việc đưa sự "tiến bộ tinh thần" mang xu hướng toàn cầu đó
vào một khuôn khổ rộng lớn hơn của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền hay
không? Hiện tại thì tinh thần đó chỉ phản ảnh một sự "tiến bộ khoa học"
thuộc vào điều khoản thứ 27. Có lẽ ngày nay phải bắt buộc thừa nhận giá trị
toàn cầu của sự tiến bộ ấy - và xem đấy là một "khoa học tâm thần" -
và không còn tùy thuộc vào tôn giáo nữa.
Đức ĐLLM : Đúng thế, tôi cũng
nghĩ như thế. Tôi xin lập lại: có thể tìm hiểu tâm thức bằng hai cách - hoặc
trên phương diện tôn giáo, dựa vào đức tin chẳng hạn - và trong trường hợp này
thì sẽ không mang tính cách toàn cầu - hoặc trên một phương diện khác, sâu xa
hơn, toàn cầu hơn, liên quan đến tất cả mọi người - đấy là thể dạng tâm thức
ghi khắc vào thân xác chúng ta, chung cho tất cả mọi con người, và đấy cũng
chính là những gì đã được đề cập đến trên đây khi chúng ta bàn thảo về
"tấm bản đồ tâm thần".
Nền dân chủ tâm linh
S. H. : Tôi hoàn toàn đồng ý với
Ngài, thế nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh đến chữ dân chủ. Dân chủ gồm những con
người, không phải là những con người được ưu đãi, mà là những con người nói
chung. Nếu chúng ta trông thấy nhan nhản khắp nơi sự khác biệt khủng khiếp giữa
người giàu có và nghèo khó thì có nghĩa là thể chế dân chủ phải hành động và tiếp
tục phải hành động nhiều hơn nữa nhằm giúp đỡ người nghèo khó có thể sống còn
và bảo vệ được các quyền lợi tối thiểu và sự tự do của họ. Chính trị phải phục
vụ cho mục đích đó, nhờ đấy các giá trị tinh thần mới có thể phục hồi lại được.
Chúng ta không muốn nhìn thấy các chính phủ chỉ biết quan tâm đến niềm hãnh
diện quốc gia mà mình đang bảo vệ mà phải biết cùng hợp tác với nhau để chung
lưng làm việc. Chúng ta cần đến các thể
chế siêu chính phủ mang tính cách đa phương bởi vì ngày nay không còn có thể giấu
giếm được những gì xảy ra ở khắp mọi nơi. Một người nào đó bị giết ở miền nam
Ai-cập là chúng ta cũng sẽ hiểu ngay là mình có thể làm được gì. Chúng ta cần
có một một người lãnh đạo dân chủ cho toàn thế giới, phù hợp với tinh thần thế
tục đúng theo những gì mà Ngài vừa trình bày, tức nhằm vào mục đích nêu cao chủ
trương bất-bạo-động, lòng từ bi. Đúng thế, cần phải có một thể chế dân chủ thế
tục, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là phải gạt bỏ một cấp bậc cao hơn, tức
là sự thiêng liêng của một thái độ bao dung (của tôn giáo). Thế nhưng chính Ngài phải lên
tiếng. Tôi không phải là người có thẩm quyền để nêu lên điều ấy.
Đức ĐLLM : Tại sao lại không,
ông là đàn anh của tôi kia mà, nhất định ông có nhiều điều để chỉ bảo cho chúng
tôi. Ông đã từng tham gia vào cơ quan Liên Hiệp Quốc lúc cơ quan này mới được
thành lập, và ông cũng đã từng hợp tác để soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về
Nhân Quyền. Hôm nay đây tôi muốn xin ông tiếp tục cố vấn cho tổ chức cao nhất
thế giới này (tức
là Liên Hiệp Quốc), mà tiếc thay vẫn còn là một tổ chức của các
chính phủ, và vẫn chưa phải là một tổ chức chung của tất cả các dân tộc. Tôi
vẫn thường nói lên rằng thế giới là của nhân loại, thế giới không thuộc quyền sở
hữu của vua chúa, không thuộc quyền sở hữu của các vị lãnh đạo tinh thần, cũng
không thuộc quyền sở hữu của những người kinh doanh. Nước Mỹ là sở hữu của 320
triệu người dân Mỹ, không thuộc đảng Cộng Hòa hay đảng Dân Chủ. Trung Quốc là
sở hữu của 1.3 tỉ người Trung Quốc, không phải là của riêng của Đảng Cộng Sản.
Do dân và vì dân thì đấy mới thật là một thể chế dân chủ! Một thể chế tốt nhất.
Riêng phần tôi thì vào năm 2011, chính tôi đã thực thi các việc thay đổi cần
thiết theo chiều hướng đó bằng cách tách rời chức vụ lãnh đạo tạm thời (chính trị)
của xứ Tây tạng ra khỏi chức vụ tôn giáo. Đấy là giai đoạn chót của chương
trình cải cách được khởi sự từ những năm đầu của thập niên 1960, bằng cách bầu
cử dân chủ để chọn những người lãnh đạo cho dân tộc Tây tạng, và cũng nhờ đó vào
năm 2001, một vị thủ lãnh chính trị của chính phủ lưu vong cũng đã được bầu lên.
Khi cuộc khủng hoảng Iraq bùng nổ, nhiều người viết thư khẩn khoản yêu cầu tôi
hãy đến Bagdad để gặp Saddam Hussein. Tôi đã trả lời với họ rằng một cuộc viếng
thăm như thế chẳng mang một ý nghĩa gì cả, bởi vì trước đây tôi chưa từng có
một mối liên hệ gì với ông ta và hơn nữa tôi cũng chẳng quen biết ai ở Iraq cả.
Làm thế nào tôi có thể đơn thương đến đấy được? Lúc ấy tôi cũng đã nghĩ đến giải
pháp tìm cách thuyết phục một số các vị từng đạt giải Nobel nhằm thành lập một
phái đoàn thân hành đến Iraq hầu tìm một giải pháp hòa bình và bất-bạo-động cho
tình thế cực kỳ căng thẳng tại đây. Tôi cũng đã gợi ý về chuyện này trong một
buổi họp của tổ chức Diễn Đàn 2000 (Forum 2000) tại Prague (thủ đô Tiệp Khắc). Diễn Đàn 2000
là sáng kiến của cựu tổng thống Tiệp Khắc và diễn đàn này cũng đã tổ chức rất đều
đặn các buổi thuyết trình hàng năm. Tất cả mọi người trong buổi họp đều tỏ ra
quan tâm đến đề nghị trên đây và tìm cách để thực hiện. Thế nhưng đến khi Liên
Hiệp Quốc nhúng tay vào thì đấy lại có nghĩa là nước Mỹ hoặc là một cường quốc
nào khác giật dây sau lưng. Tiếc thay những chuyện như thế đã khiến cho các
sáng kiến của Liên Hiệp Quốc mất hết hiệu lực. Đồng thời tôi cũng nhận thấy
rằng sự hoạt động của Liên Hiệp Quốc bị cản trở không ít vì cách quản lý thiếu
dân chủ. Quyền phủ quyết tại Hội Đồng Bảo An (13) là cả một vấn đề. Chỉ cần một
hoặc hai Quốc Gia thành viên của Hội Đồng là cũng đủ chống lại ý kiến chung của
toàn thể các thành viên khác và chận đứng mọi thủ tục tiến hành.
Cải tổ Liên Hiệp Quốc
S. H. : Thật thế, hiện nay không
thể nào còn nhắm mắt làm ngơ được nữa khi trông thấy Nga và Trung Quốc là hai
thành viên của Hội Đồng Bảo An, chỉ vì quyền lợi riêng đã ngăn cản nghị quyết
của Liên Hiệp Quốc lên án sự đàn áp dã man của Bachar Al-Assad, mà những hình
ảnh ghê tởm được đưa lên Internet hằng ngày. Quả là lúc phải biến Hội Đồng Bảo
An thành một cơ quan chuyên lo về an ninh chính trị, và cả an ninh kinh tế lẫn
xã hội nữa. Số thành viên của Hội Đồng này sẽ gồm từ hai mươi đến hai mươi lăm
thành viên gồm các quốc gia mang "trách nhiệm" lớn nhất trên thế
giới, tức là mang những gánh nặng lớn nhất về dân số, kinh tế và văn hóa. Phải
hủy bỏ quyền phủ quyết. Mọi quyết định phải được chấp thuận bởi đa số: thí dụ
như hai phần ba chẳng hạn.
Đức ĐLLM : Đã từ nhiều năm nay
tôi luôn hy vọng được nhìn thấy một cơ quan mà các thành viên không phải là các
quốc gia mà chỉ gồm những con người thật tốt, chẳng hạn như Václav Havel cựu Tổng
Thống Tiệp Khắc, Đức Cha Desmond Tutu (14) của Nam Phi hoặc là như ông đây đã
được mọi người tin cẩn. Một cơ quan như thế may ra mới có thể thật sự đại diện
cho nhân loại bên cạnh vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, nhất là trong những giai
đoạn khủng hoảng và cần phải lấy những quyết định vượt lên trên các quyền lợi
thông thường!
S. H. : Tôi hoàn toàn đồng ý với Ngài. Chúng ta cần phải có một ủy ban gồm
các vị hiền nhân, tức là những người thuộc tầm cỡ như Gorbatchev không màng đến
quyền uy mà chỉ biết quan tâm đến sự an vui của nhân loại. Đấy là những con
người thật nhân từ có thể đứng ra để nói với vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc:
"Hãy bỏ quyền phủ quyết đi !". Tuy nhiên chúng ta cũng phải cần đến
một thế hệ trẻ biết xuống đường ở khắp mọi nơi để nói lên rằng: "Chúng tôi
không còn chịu đựng được nữa cách mà quý vị cai trị chúng tôi. Chúng tôi muốn
có một chính phủ thật sự dân chủ". Nếu con số họ ngày càng trở nên đông
đảo trên đường phố, thì các chính phủ hoặc sẽ phải biết lắng nghe các vị hiền
nhân, hoặc sẽ phải tìm cách đàn áp thế hệ trẻ. Thật ra thì chính phủ nào có
muốn đàn áp thế hệ trẻ đâu, vì thế tốt hơn cho họ là lắng nghe các vị hiền
nhân!
Đức ĐLLM : Đấy là những gì có
thể thực hiện được!
S. H. : Thật thế, vị Tổng Thư Ký
có nhiệm vụ duy trì và phát triển hòa bình. Nếu vị ấy tuyên bố rằng: "Công
việc của tôi cần phải có sự hỗ trợ của một ủy ban gồm những người được tuyển
chọn dựa vào khả năng hiểu biết, sự sáng suốt và tính cách đa dạng về nguồn gốc
văn hóa của họ. Chỉ cần độ mười người cũng đủ, thế nhưng họ phải là những người
danh tiếng và đa số là phụ nữ. Đấy là những người có thể góp phần mang lại
những cải tổ cần thiết bên trong tổ chức Liên Hiệp Quốc và để nhận lấy trách
nhiệm mang lại an vui cho nhân loại, bởi vì chúng ta đang đứng trước một ngưỡng
cửa, một ngưỡng cửa vô cùng nguy hiểm". Vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc có
thể đảm trách việc ấy. Thật vậy, Liên Hiệp Quốc là một tổ chức xuyên chính phủ,
thế nhưng mọi quyết định thì lại do các chính phủ đảm trách, trong khi đó nếu
chiếu theo điều khoản 99 của Bản Hiến Chương thì trách nhiệm của vị Tổng Thư Ký
là phải bảo vệ quyền chủ động của tổ chức. Đấy là trọng trách mà ông đã được
giao phó.
INDIGÈNE : Ủy ban các vị hiền
nhân có thể cũng nên nhìn vào những suy tư của Cha Ponchaud, một vị cố đạo của
Nhà Truyền Giáo Paris (Missions Étrangères de Paris), một người biết
rất rành về Á Châu: ông ta là người đầu tiên đã cảnh báo dư luận quốc tế về các
trại tập trung của Khờ-me đỏ. Ông đã tuyên bố như sau: "Mặc dù điều tôi
nói có thể gây ra tiếng xấu, thế nhưng tôi vẫn nghĩ rằng khái niệm về nhân
quyền không mang tính cách toàn cầu, mà đấy là một gia tài riêng của Do Thái và
Thiên Chúa Giáo mà tôi luôn bênh vực qua những hành động nhân đạo của tôi từ
một khía cạnh là tất cả mọi người đều là con trai hay con gái của Trời! Chỉ có
một sự thiêng liêng duy nhất đấy là con người. Đối với một người Phật Giáo thì
không hề có khái niệm về con người, mà đấy chỉ là một một mớ năng lượng tích
cực hay tiêu cực mà mình đã tiếp nhận được tùy thuộc vào các hành động tốt hay
xấu của mình! Căn cứ vào đó con người sẽ đương nhiên bị phán xử. Sự góp phần ấy
của Thiên Chúa Giáo cho nhân loại không thể đem ra ép buộc người khác được. Hơn
nữa, theo tôi thì thế giới Tây Phương với chủ nghĩa vật chất và tính kiêu ngạo của
mình không thể nào có đủ tư cách để nói lên nhân quyền!" (15). Quý vị nghĩ
thế nào về câu phát biểu này?
S. H.: Tôi hoàn toàn không đồng
ý. Các sai lầm của chủ nghĩa vật chất Tây Phương được Cha Ponchaud nêu lên một
cách thật chính đáng. Thế nhưng các người soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế
không phải chỉ cố ý nhắm vào người Tây Phương, mà đúng hơn là hướng vào tính
cách toàn cầu của nhân loại. Nhóm soạn thảo gồm có một người Trung Quốc, một
người Liban, vài người thuộc Châu Mỹ La-tinh, và một người Ấn. Không phải tình
cờ mà René Cassin (16) đã ghép ghêm chữ "Quốc Tế" vào bản Tuyên Ngôn,
và đây cũng là trường hợp duy nhất mà mối quan tâm đến tính cách toàn cầu được
nêu lên một cách minh bạch so với các văn bản mang tính cách quốc tế khác.
Không nên để các kẻ độc tài ẩn náu phía sau cách Tây Phương hóa Bản Tuyên Ngôn
để tự bào chữa cho mình trước những điều khoản đã được ghi hẳn hoi trong đó.
Không! Thượng Đế không phải là vị đứng ra để áp đặt luật pháp. Chính con
người phải làm việc đó, những con người dân chủ biết gánh lấy trách nhiệm của
mình.
Đức ĐLLM : Bất kể là chúng ta
thuộc vào một xứ sở nào hay một lục địa nào, trên căn bản chúng ta đều là những
con người như nhau. Chúng ta đều có những nhu cầu và những mối quan tâm giống
nhau. Tất cả chúng ta đều mong cầu hạnh phúc và cố tránh khổ đau, dù chúng ta
thuộc sắc dân nào, theo tín ngưỡng nào, thuộc giới tính nào hay đảng phái chính
trị nào. Ngoài con người ra, thì còn phải kể đến các sinh vật có giác cảm khác
nữa, tất cả đều có quyền đòi hỏi được hạnh phúc, được sống trong an bình và tự
do. Một số các quốc gia Á Châu cho rằng một số các tiêu chuẩn nêu lên trong Bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế mà người Tây Phương chủ trương không thể mang ra áp dụng cho
Á Châu và các vùng thuộc thế giới thứ ba khác trên thế giới được vì sự khác
biệt về văn hóa và sự chênh lệch về xã hội cũng như kinh tế của các nơi này.
Tôi không đồng ý với quan điểm đó và tôi tin rằng hầu hết các dân tộc Á Châu
cũng không hề chia sẻ quan điểm đó, bởi vì bản chất tự nhiên của tất cả mọi con
người là ước mong tìm được tự do, công bằng và nhân phẩm, và tất cả mọi người
đều có quyền ngang hàng nhau trong việc thực hiện ước vọng ấy. Tôi không thấy có
gì nghịch lý giữa nhu cầu phát triển kinh tế và sự đòi hỏi phải được kính trọng
trên phương diện nhân quyền. Sự phong phú về văn hóa và tôn giáo là một yếu tố góp
phần tăng cường thêm các quyền hạn căn bản nhất về nhân quyền cho tất cả các
tập thể con người, bởi vì những gì làm nền tảng chống đỡ cho sự đa dạng ấy
chính là các giá trị và các nguyện vọng kết chặt tất cả chúng ta với tư cách là
những thành phần trong cùng một gia đình nhân loại. Không thể nào nêu lên các
khác biệt về xã hội và văn hóa để bào chữa cho sự vi phạm nhân quyền. Không ai
có thể vin vào bất cứ một lý do nào để biện bạch cho các hành động kỳ thị một
người thuộc vào chủng tộc khác, hoặc đối với phụ nữ và những người yếu kém trong
xã hội. Nếu lỡ vi phạm thì phải thay đổi ngay cách hành xử của mình. Các nguyên
tắc toàn cầu về sự bình đẳng giữa con người phải được xem là ưu tiên nhất. Các
chế độ độc đoán và chuyên chế thường là các chế độ chống lại tính cách toàn cầu
về nhân quyền. Nhượng bộ trước nguyên tắc đó sẽ là một sự sai lầm lớn lao.
Ngược lại, chúng ta phải bắt buộc các chế độ đó tôn trọng và tuân thủ các
nguyên tắc toàn cầu đã được mọi người công nhận, đấy cũng là cách bảo vệ các
quyền lợi to lớn và lâu dài hơn của chính dân tộc của các chế độ ấy.
Bài thơ số 116 thuộc thể thơ 14
câu của Shakespeare
Đức ĐLLM : Trên phương diện tinh
thần thiết nghĩ ông có đủ thẩm quyền đòi hỏi vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc phải
thành lập ủy ban các vị hiền nhân như đã đề nghị.
S. H. : Thưa Ngài Thánh Thiện
yêu quý của tôi, tôi đã quá già rồi. Đến cái tuổi tôi thì cũng nên chuẩn bị cho
những gì về sau, ở vào một nơi nào khác. Và nên giao lại công việc cho những ai
còn ở lại. Tôi có cái ân huệ lớn lao được gặp Ngài, không phải chỉ gặp Ngài vào
ngày hôm qua, mà cả ngày hôm nay và đến cả hai lần. Tuy vậy lần sắp đến đây,
biết đâu Ngài sẽ không còn có tôi bên cạnh nữa, tôi sẽ ở vào một nơi khác, thế
nhưng tôi sẽ luôn nghĩ đến Ngài, dù là ở đâu thì tôi cũng sẽ cứ nghĩ đến Ngài,
và tôi chỉ biết hy vọng rằng tất cả những gì Ngài ước vọng sẽ trở thành sự
thực, đấy là sự bình an cho con người, một lòng bao dung cho tất cả, và riêng đối
với Ngài thì Ngài luôn giữ được một tâm tư thật đẹp, được nếm một ly rượu ngọt,
thưởng thức một bài thơ hay.
Đức ĐLLM : Ông bạn nên hiểu rằng
những sự dấn thân quan trọng nhất của cả hai chúng ta thì một mặt là nhằm mang
lại sự hài hòa giữa các tôn giáo, và mặt khác là giúp con người biết ý thức về
các giá trị nội tâm - và theo tôi thì đấy là cội nguồn sâu xa nhất mang lại sự
thành công cho một kiếp người - tôi sẽ giữ vững niềm tin đó cho đến cuối cuộc
đời tôi. Bất cứ lúc nào và dù cho bất cứ gì xảy ra thì tôi cũng luôn sẵn sàng
nhận lãnh cả hai trọng trách đó.
INDIGÈNE : Thưa Ngài Thánh
Thiện, Ngài có thích thi phú hay không? Trước khi chia tay, chúng tôi xin yêu
cầu Stéphane (tức
là một cách gọi thân mật ông Stéphane Hessel) mà ai cũng biết là thuộc
lòng hàng trăm bài thơ, hãy ngâm lên cho tất cả chúng ta một bài thơ của
Shakespeare thuộc thể loại 14 câu mà ông đã nhét vội vào túi mình vào tháng bảy
năm 1944 khi nghĩ rằng bọn Gestapo sắp đem mình ra hành quyết: bài thơ mang tựa
đề là "Nếu tôi chết, xin đừng khóc tôi..."
S. H. : Không được, không nên
chọn bài thơ "sonnet" ấy (tức bài thơ thuộc thể loại 14 câu gọi là sonnet).
Chúng ta đang cần đến tình thương, do đó tôi xin ngâm lên hầu quý vị một bài
thơ khác:
Let me not to the marriage of true minds
Admit impediments. Love is not love
Which alters when it alteration finds,
Or bends with the remover to remove:
O no! it is an ever-fixed mark
That looks on tempests and is never shaken;
It is the star to every wandering bark,
Whose worth's unknown, although his height be
taken.
Love's not Time's fool, though rosy lips and
cheeks
Within his bending sickle's compass come:
Love alters not with his brief hours and weeks,
But bears it out even to the edge of doom.
If this be error and upon me proved,
I never writ, nor no man ever loved.Shakespeare
Sau đây là phần phỏng dịch:
Let me not to the marriage of
true minds
Xin đừng để cho tôi ngờ vực sự kết hợp,
Admit impediments. Love is not
love
Giữa hai tâm hồn chung thủy. Tình yêu hỡi, nào có phải tình yêu,
Which alters when it
alteration finds,
Nếu mi biến đổi khi trông thấy những tàn phai.
Or bends with the remover to
remove:
Hay gục ngã khi thấy người thay lòng đang đổi dạ.
O no! it is an ever-fixed mark
Không! Tình yêu, sừng sững ngọn hải đăng,
That looks on tempests and is
never shaken;
Đứng lặng nhìn, ô kìa bão táp với phong ba.
It is the star to every
wandering bark,
Tình yêu ơi, làm vì sao cho con thuyền lạc hướng,
Whose worth's unknown,
although his height be taken.
Giữa trời cao, có thước nào đo được?
Love's not Time's fool, though
rosy lips and cheeks
Tình yêu, nào có phải tên hề trong một thoáng, bằng đường cong lưỡi hái,
Within his bending sickle's
compass come:
Chặt phăng đi đôi môi đỏ má hồng.
Love alters not with his brief
hours and weeks,
Năm tháng dài, nào biến đổi được tình yêu,
But bears it out even to the
edge of doom.
Sắt son, che yêu thương cho đến khi nhắm mắt.
If this be error and upon me
proved,
Nếu ai đó bảo là sai, ấy ví như:
I never writ, nor no man ever
loved.
Tôi chưa viết một lời nào, cũng chẳng hề có ai biết yêu nhau.
Shakespeare
Ghi Chú
(của nhà xuất bản)
1- Mathieu Ricard cho biết theo Phật giáo thì một "sinh vật có giác
cảm" hàm chứa một trí thức (être sensible / sensitive being) là một sinh
vật có khả năng phân biệt được sự an vui và khổ đau, nói một cách giản dị hơn,
là cảm nhận được sự thích thú và đau đớn.
2- Quy luật nguyên nhân hậu quả là một quy luật thuộc vào một hệ thống
tương tác liên kết giữa nguyên nhân và hậu quả chi phối các hiện tượng thiên
nhiên. Chữ karma (là tiếng Phạn và có
nghĩa là "hành động") dùng để mô tả các hậu quả phát sinh từ các hành
động nhân từ hay độc ác mang lại các thể dạng như an vui hay khổ đau. Long Thụ
(Nagarjuna) một triết gia người Ấn thuộc thế kỷ thứ II, được xem như một
"vị Phật thứ hai", tức có ý nói ông là người đi sau, đã đề cập đến
quy luật nguyên nhân hậu quả, nhất là trong tác phẩm "Các tiết thơ về Trung Đạo" còn gọi là "Con Đường Trung Đạo" - hay
cũng có thể xem là một cách gọi khác của quy luật tương liên (lý duyên khởi)
- tức là quy luật đánh đổ bất cứ một hình thức tuyệt đối nào - kể cả một vị
Trời sáng tạo cũng như chủ thuyết hư vô tuyệt đối: có nghĩa là tất cả đều có
thể xảy ra, không có một thứ gì tự nó có thể hiện hữu - và chính nhờ đấy mà
hành động mới có thể xảy ra được. Mãi
đến thế kỷ thứ XX, sự thật trên đây nhằm mang lại một sự cởi mở rộng lớn, mới
được đưa vào thế giới Tây Phương, đấy là nhờ một triết gia người Đức chuyên gia
về hiện tượng học là Edmund Husserl (1859-1938), và công trình nghiên cứu của
ông cũng đã ảnh hưởng rộng lớn đến toàn bộ nền triết học hiện đại.Từ ngày 16
tháng 3, năm 2011 đến nay, hai mươi sáu người vừa là những người tu hành -
trong số này có hai ni sư - và cả những người thế tục đã tự thiêu. Đấy là chưa
kể một vị sư trẻ của tu viện Kirti tên là Tapey cũng đã tự thiêu trước đây vào
ngày 27 tháng 2 năm 2009, và cũng là người đầu tiên đã hy sinh mạng sống của
mình để khởi đầu cho một chuỗi dài những thảm kịch thật đau thương. Phần lớn
các cuộc tự thiêu đã xảy ra trong tỉnh Tứ Xuyên ngày nay, thật ra là trong một
vùng thuộc tỉnh Amdo trước đây, tức là một trong ba tỉnh lớn của xứ Tây Tạng
lịch sử và cũng là nơi sinh thành của chính Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV. Đáng
chú ý hơn nữa là tăng đoàn của tu viện Kirti - quản lý hai ngôi chùa trong vùng
này, và khoảng bốn mươi ngôi chùa nhỏ khác trên vùng cao nguyên cũng tùy thuộc
vào hai ngôi chùa này, và một ngôi chùa thứ ba nữa đã được xây dựng lại trong
vùng tỵ nạn ở Dharamsala vào năm 1990 - đã được Ursula Gauthier, đặc phái viên
của tạp chí Nouvel Observateur ở Bắc Kinh xem là "đầu não của phong
trào". Tăng đoàn trên đây đại diện cho phong trào kháng chiến bên trong xứ
Tây Tạng, và cũng là những người tích cực nhất trong các cuộc bạo loạn xảy ra
vào tháng 3, năm 2008, đấy là dịp mà các người tu hành và thế tục cùng đứng lên
chống lại sự tiêu diệt văn hóa do chính quyền Trung Quốc chủ xướng và cũng đã
làm cho toàn vùng này trở nên nóng bỏng. Đã từ bốn năm nay các nhà sư của tu
viện Kirti bị công an và quân đội kiểm soát gắt gao, họ bị đồng loạt đưa đi học
tập về lòng yêu nước và lòng quyết tâm trung thành với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc. Bắc Kinh nghi ngờ các nhà sư của tu viện Kirti tích cực liên lạc với
kháng chiến Tây Tạng ở hải ngoại. Kể từ tháng 3 năm 2011 chính quyền Trung Quốc
lại còn gia tăng thêm sự đàn áp và không những khiến cho các vị sư trẻ phải
chọn một giải pháp thật hết sức khủng khiếp là phải tự tử, mà đối với các vị
thầy thuộc các cấp bậc tu tập cao thâm thì họ còn nghĩ xa hơn nữa, đến những hậu
quả không tốt lành và lâu dài mang lại từ những hành động tối hậu đó cho những
người hy sinh đời mình - có thể cả năm trăm kiếp về sau này (Phật Giáo cho rằng
tự sát sẽ tạo ra nghiệp thật lâu dài, có thể đến năm trăm kiếp sau).
4- Robert Thurman là cha của nữ diễn viên điện ảnh Uma Thurman, là giáo
sư chuyên gia về Phật Giáo Ấn Độ tại đại học Columbia Nữu Ước. Ông cũng là một
người bạn tâm giao của Đức Đạt-lai Lạt-ma và cũng đã được tạp chí Time xếp là "một trong số hai mươi
lăm nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đối với nước Mỹ" vào năm 1997.
5- Francisco Varela (đã qua đời) từng là một nhà thần kinh học nổi
tiếng, là một trong những người thành lập Viện Tâm Linh và Sự Sống (Mind and
Life Institute) vào năm 1987, nhằm mục đích đóng góp vào việc trao đổi sự hiểu
biết và hợp tác giữa các khoa học gia và các chuyên gia về Phật Giáo (gồm các
học giả và các nhà sư tu tập về thiền định). Richard Davidson còn mang biệt
danh là "Richie" là một trong số các chuyên gia lừng danh nhất trên
thế giới nghiên cứu về sự vận hành của xúc cảm trong tâm thức. Ông điều khiển
phòng thí nghiệm nghiên cứu các ảnh chụp sự sinh hoạt của não bộ thuộc đại học
Madison tại Hoa Kỳ và từ mười lăm năm nay nhờ vào các kết quả mang lại từ thiền
định ông đã đạt được nhiều hiểu biết sâu sắc nhất về não bộ. Matthieu Ricard là
một nhà sư Phật Giáo, tiến sĩ về tế bào di truyền học, lưu ngụ trong vùng
Hy-mã-lạp-sơn từ hơn bốn mươi năm nay, và cũng là người thông dịch tiếng Pháp
cho Đức Đạt-lai Lạt-ma và cũng đã góp phần không nhỏ vào các chương trình
nghiên cứu về tác động của các phép luyện tập tâm thần và thiền định liên quan
đến sự sinh hoạt não bộ và các thể dạng an vui.
6- Gandhi (1869-1948): trích từ bài viết "La doctrine de l'épée" (Giáo thuyết
của thanh kiếm), trong tuần báo Young
India, 11 tháng 8, năm 1920, và chính ông cũng là chủ biên của tờ tuần báo
này. Xin nhắc thêm ông là người chủ trương bất-bạo-động không dựa vào đạo đức
mà chỉ nhân danh "lý trí": và theo ông thì lý trí cũng chỉ là "một
cái tên gọi khác của bất-bạo-động", bởi vì bạo-động sẽ cho thấy tính cách
vô hiệu quả của nó khi nó phải đối đầu với lý trí - bạo lực chỉ làm cho tính
cách vô hiệu quả gia tăng thêm, và làm bùng lên mọi thứ xúc cảm khác. Bất-bạo-động
không hề dính dáng gì với thể dạng thụ động. Gandhi cũng là một người chủ
trương các "hành động trực tiếp": tẩy chay, tuyệt thực, bất hợp
tác... Ông ta cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ các tác phẩm của Tolstoy (1828-1910)
một đại văn hào Nga, và cả một tiểu luận gia người Mỹ là Henry-David Thoreau
(1817-1862) qua các bài viết chủ trương sự bất tuân lệnh trên mặt dân sự, mà Gandhi
đã đọc được khi còn trong tù, các bài viết này chứng minh cho thấy là các chủ
trương của ông mang tính cách khoa học rõ rệt, và đồng thời ông cũng chịu ảnh
hưởng của một tác giả người Anh là John Ruskin (1819-1900) nêu lên tính cách
tàn phá của đồng tiền vàng (gọi là đồng guinea của người Anh thời bấy giờ), và
của kinh tế thị trường. Gandhi cũng thường xuyên nghiên cứu kinh Koran, Tân
Ước, kinh Bhagavad-Gita (Kinh của Ấn Giáo), các bài thi phú thiêng liêng
của nước Ấn, v.v...
7- Ngày 17 tháng 9, năm 2010, tại một thành phố thuộc trung tâm Tunisia
có một người bán hàng rong trẻ tuổi tên là Sidi Bouzid bị bắt vì không có giấy
phép buôn bán. Để chống lại sự bất công đó, người này đã tự thiêu và sau đó đã
chết vào ngày 4 tháng giêng, năm 2011. Biến cố này được xem như nguyên nhân gây
ra cuộc cách mạng đầu tiên của cao trào Mùa Xuân Á-rập. Cao trào này đạt đến tột
đỉnh tại Tunis (thủ
đô Tunisia) vào ngày 14 tháng giêng, năm 2011 và đã lật đổ tổng thống
Ben Ali, tạo ra cả một làn sóng ào ạt các cuộc đấu tranh lan rộng sang các quốc
gia Á-rập khác dưới các hình thức chống đối bất-bạo-động dựa vào các cơ cấu xã
hội đang hiện hành.
8- Mikhail
Gorbachev, sinh năm 1931, đã được bầu vào chức vụ cao nhất là Tổng Thư Ký
Đảng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết (PCUS) ngày 11 tháng 3, năm 1985. Ngoài các
biện pháp chính trị gọi là sự "minh bạch" hay glasnost và "cải tổ
cơ cấu" hay perestroïka, ông còn thiết lập một nền chính trị bất-bạo-động
đúng với ý nghĩa của nó: bằng cách tổ chức lần đầu tiên các cuộc bầu cử thật sự
tự do kể từ cuộc Cách Mạng tháng 10, năm 1917, ông còn bãi bỏ cả "vai trò
lãnh đạo và điều khiển Đảng", tái lập nền tự do báo chí, tổ chức hệ thống kinh
tế tư nhân; về mặt đối ngoại: thì Quốc Hội bầu ông lên làm Tổng Thống Liên Bang
Sô Viết vào năm 1990, và các nghị sĩ trong Quốc Hội này thì cũng đều được bầu
bằng cách phổ thông đầu phiếu. Tuy nhiên đồng thời ông vẫn giữ chức vụ Tổng Thư
Ký Đảng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết. Gorbachev chủ trương bãi bỏ khí giới hạt
nhân và không sử dụng sức mạnh. Giống như giải pháp mà Đức Đạt-lai Lạt-ma đã
đưa ra trước đây, ông cũng đã tìm cách thuyết phục Saddam Hussein không nên gây
ra cuộc xung đột tại Iraq. Năm 1991 ông gặp nhiều khó khăn do phe bảo thủ gây
ra, và một số người chủ trương cải tiến khác vì quyền lợi cá nhân cũng lăn vào tranh
dành ảnh hưởng với ông, đồng thời về phía dân chúng thì thợ mỏ đình công chống lại
đời sống đắt đỏ gây ra bởi các tàn tích quan liêu, Liên Bang thì có cơ tan rã -
các nước cộng hòa vùng Baltic đòi độc lập - khiến ông đành phải chọn giải pháp
từ chức để tránh tình trạng xung đột đẫm máu có thể xảy ra. Cũng xin nêu thêm một
sự kiện khác là Gorbachev đã ký kết một thỏa ước không sử dụng bạo lực với Thủ
Tướng Ấn là Rajiv Gandhi. Ông được trao tặng giải Nobel Hòa Bình năm 1990, và
trước ông một năm tức là vào năm 1989 thì Đức Đạt-Lai Lạt-ma cũng đã được trao
tặng giải thưởng này.
9- Nelson Mandela, sinh năm 1918 tại Nam Phi, tốt nghiệp luật sư và đã dành
trọn đời mình để tranh đấu chống lại sự kỳ thị chủng tộc - apartheid (kỳ thị màu da)
- do thiểu số người da trắng áp đặt, và nêu cao nguồn gốc Phi Châu của xứ sở.
Cuộc tranh đấu khởi đầu bằng các phương pháp êm thắm, chẳng hạn như gia nhập
Hội Nghị Quốc Gia Phi Châu (ANC) vào năm 1944, thế nhưng tổ chức này bị giải
tán vào năm 1960. Mandela phản ứng lại bằng cách thành lập một chi phái vũ
trang nhân danh ANC do chính ông điều khiển. Một chiến dịch phá hoại các cơ
quan quân sự và công cộng được phát động, ông bị bắt và bị kết án tù chung
thân. Đến năm 1990 ông được thả, tức là sau hai mươi bảy năm bị giam trong
ngục. Ông lại tiếp tục hoạt động chính trị và chủ trương hòa giải với chính phủ
của Tổng Thống Frederik De Klerk, và sau đó thì vị này đã bãi bỏ chế độ kỳ thị
màu da, và cả hai người đã được ban chung giải thưởng Nobel Hòa Bình vào năm
1993. Đến năm 1994 thì ông được bầu làm vị Tổng Thống đầu tiên người da đen ở
Nam Phi. Năm 1990 quả là năm đã đánh dấu một bước tiến vô cùng quan trọng đối
với chủ trương bất-bạo-động.
10- Václav Havel, sinh ngày 5 tháng 10, năm 1936 tại thủ đô Prague, là
nhà soạn kịch, từng là thủ lãnh một phong trào ly khai của Tiệp Khắc trong suốt
mười hai năm - kể cả năm năm bị tù. Các tác phẩm của ông bị cấm xuất bản trong
nước suốt hai mươi năm sau khi ông tham gia vào phong trào Mùa Xuân Prague và
phong trào này đã bị chiến xa Nga Sô nghiền nát. Ông cũng là một trong những
người tích cực nhất trong việc quảng bá bản Hiến Chương 77, đòi hỏi chính phủ
phải tôn trọng tự do và nhân quyền. Tháng 9 năm 1989, ông tổ chức một phong
trào chống đối mang tên là "Diễn Đàn Nhân Dân" khiến cho những người
lãnh đạo cộng sản phải thoái vị sau một cuộc cách mạng êm thắm. Từ tháng 9 năm
1989 đến tháng 7 năm 1992 ông giữ chức Tổng Thống Cộng Hòa Tiệp sau khi xứ sở bị
chia cắt thành hai quốc gia là Tiệp và Slovak, mặc dù trước đó ông cũng đã cố
gắng tranh đấu nhằm chống lại sự chia cắt này. Trong một cuộc biểu tình vào năm
1989, trước ngày người ta biết đến các giá trị nhân bản sâu xa và lòng mến chuộng
dân chủ của ông và để đem ra xây dựng xã hội Tiệp, ông đã từng tuyên bố như
sau: "Tình thương và sự thật nhất định sẽ chiến thắng trước hận thù và dối
trá". Ông mất ngày 18 tháng 12, năm 2011 vì bệnh ung thư phổi, đúng một
tuần lễ sau khi được ôm hôn Đức Đạt-lai Lạt-ma trong dịp ông mời Ngài cùng với
ông Stéphane Hessel tham dự Diễn Đàn 2000 về nhân quyền tại Đông Á. Diễn Đàn
lần này là nhằm mục đích tôn vinh một người Trung Quốc ly khai là Lưu Hiểu Ba bị
cầm tù vì đã tham gia vào việc soạn thảo bản Hiến Chương 08 gợi ý từ bản Hiến
Chương 77, nhằm đòi hỏi Trung Quốc phải được dân chủ hóa. Trong khi các buổi
họp của Diễn Đàn đang tiến hành thì Lưu Hiểu Ba vẫn còn tiếp tục bị giam giữ mặc
dù trước đó một năm ông đã được trao tặng giải Nobel Hòa Bình. Chính Václav
Havel đã đề nghị ông trong danh sách chọn lựa người nhận giải Nobel.
11- Martin Luther King sinh ở Atlanta (Hoa kỳ), ngày 15 tháng 1, năm
1929, một mục sư Tin Lành Baptist, bị ám sát ngày 4 tháng 4, năm 1968 tại
Memphis, Tennessee, là một người tranh đấu đòi hỏi nhân quyền cho người Mỹ da đen.
Ông là người có khuynh hướng hiếu hòa, tham gia các hoạt động chống lại chiến
tranh Việt Nam và nhất là có tài hùng biện - bài diễn văn "I have a dream" (Tôi mang một giấc mơ) trước Đài tưởng niệm
Lincoln ở Hoa-Thịnh-Đốn đã trở thành một huyền thoại. Ông từng kêu gọi tẩy chay
xe buýt ở Montgomery tại Alabama để chống lại sự kỳ thị chủng tộc trong việc
chuyên chở hành khách. Hầu hết các quyền hạn này đều đã được thừa nhận trong
bản Civil Right Acts (Quyền công dân)
và Voting Rigths Acts (Quyền bầu cử) dưới
thời Tổng Thống Lyndon B. Johnson. Martin Luther King là người trẻ tuổi nhất đã
đạt được giải Nobel Hòa Bình vào năm 1964. Ông được truy tặng Huy chương Tổng
thống về Tự Do vào năm 1977 do Tổng Thống Jimmy Carter trao tặng, giải thưởng
Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1978 và huy chương vàng của Quốc Hội Mỹ năm
2004. Kể từ năm 1986, ngày 15 tháng giêng, tức là ngày sinh nhật của ông, đã
trở thành Martin Luther King Day (ngày tưởng niệm Martin Luther King), một ngày nghỉ
lễ tại Hoa Kỳ.
12- Albert Camus: trích trong bức thư gửi cho Étienne Benoist, ngày 12
tháng 3, năm 1952, được Olivier Todd trích dẫn trong quyển Camus, Une Vie (Camus, Một Cuộc Đời). Benoist (1901-1954) là một
người tranh đấu bất-bạo-động, sau khi qua đời đã lưu lại một tác phẩm mang tựa
đề Le Petit Testament (Lời Di Chúc Nhỏ)
- Alençon, nhà xuất bản Impr. Alençonnaise, 1970.
13- Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc gồm có mười lăm thành viên, năm trong
số này là các thành viên thường trực - Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga, Pháp và Anh
Quốc - và đấy là các thành viên có quyền phủ quyết. Đấy cũng là cơ quan duy
nhất của Liên Hiệp Quốc không mang tính cách dân chủ. Trong khi đó thì tất cả
các cơ quan chuyên môn khác của Tổ chức này đều được điều hành bằng phương pháp
biểu quyết đa số, duy nhất chỉ có Hội Đồng Bảo An là đòi hỏi phải có sự thống
nhất hoàn toàn giữa năm thành viên thường trực. Stéphane Hussel cho biết là
điều đó đã chứng minh cho thấy một cách hết sức rõ ràng sự kiện là ít nhất một
trong số năm "cường quốc" rất lo ngại về các quyền lợi quan trọng của
mình có thể bị sứt mẻ nếu quốc gia mình lọt vào phía thiểu số. Điều khoản tuyệt
đối này, thường được nhiều người biết hơn dưới cái tên gọi là "quyền phủ
quyết", dù là mang tính cách cần thiết đi nữa, thế nhưng đồng thời cũng lại
là một chướng ngại cản trở các dự án can thiệp của Liên Hiệp Quốc đối với các
hồ sơ nóng bỏng, chẳng hạn như những gì đang xảy ra đối với Trung Quốc và Nga
Sô khi các quốc gia này chống lại việc lên án Bachar Al-Assad, mà đa số các
thành viên khác của Liên Hiệp Quốc đều đã tán thành trước các tội ác do chính
phủ Syria vi phạm đối với dân tộc của nước này.
14- Desmond Mpilo Tutu được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1984.
Ông là một người tranh đấu không hề nhụt chí chống lại kỳ thị màu da (apartheid) và đồng thời cũng chống lại
những người da đen chủ trương nhất quyết phải trả thù. Vị giám mục Nam Phi
người da đen này luôn đưa ra thông điệp kêu gọi hòa bình và bất-bạo-động mỗi khi
ông thuyết giảng tại nhà thờ, và đấy cũng là một cách tích cực để chống lại các
chính phủ "afrikaner" (tức là các chính phủ do người da trắng điều khiển).
Năm 1986, ông là người da đen đầu tiên được Nhà thờ Tin Lành Anglican của Nam
Phi phong chức Tổng Giám Mục địa phận Cap Town. Ông luôn tích cực tranh đấu để
bảo vệ nhân quyền trên toàn thế giới nhất là tại Tây Tạng. Tháng ba năm 2009,
ông đưa ra một lá thư được mười ngàn người ký tên, trong số này có bốn mươi
nhân vật nổi tiếng trên thế giới, nhằm đòi hỏi các quan chức Trung Quốc
"phải chấm dứt không được sử dụng các ngôn từ nhằm xúc phạm, đổ lỗi, lạm
dụng Đức Đạt-lai Lạt-ma", đồng thời ông cũng kêu gọi Cao Ủy Liên Hiệp Quốc
đến Tây Tạng để điều tra về tình trạng nhân quyền tại đây.
15- Báo Le Monde số ra ngày 6 tháng 12, năm 2011 phỏng vấn Cha François
Ponchaud, ký giả phỏng vấn là Bruno Philip.
16- René Cassin (1887-1976) có thể xem như là cha đẻ của Bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền được Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12, năm 1948 tại điện
Chaillot Paris. Ông là cựu chiến sĩ của tổ chức France Libre (tổ chức kháng
chiến Pháp) bên cạnh Đại tướng de Gaulle hoạt động ở Anh, và cũng là
một luật gia và nhà ngoại giao, chủ tịch ủy ban tư vấn về nhân quyền của Quai
d'Orsay (Bộ
Ngoại Giao Pháp) tại Paris, ông cũng là một người rất tích cực trong
ủy ban do Liên Hiệp Quốc thành lập để soạn thảo Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, ủy ban
này gồm mười hai thành viên và vị chủ tịch là Eleonor Rosevelt, là quả phụ của
Tổng Thống Mỹ. Vào lúc đó Stéphane Hessel còn là một nhà ngoại giao trẻ và cũng
là một người hợp tác thân tín của Henri Laugier - làm Phó Tổng Thư Ký Liên Hiệp
Quốc -, ông giữ chức vụ thư ký cho ủy ban trên đây, và với tư cách đó ông cũng
là người đảm trách việc liên lạc với Đại Hội Đồng (Liên Hiệp Quốc). Chính Cassin đã dự
thảo Bản Tuyên Ngôn và ông đã bất chấp mọi sự nghi ngại của một số quốc gia, trong
đó kể cả nước Pháp, là có thể vì bản tuyên ngôn trên đây mà sẽ bị mất chủ quyền
tại các thuộc địa của mình. Quan điểm của ông về nhân quyền thật hết sức quyết
liệt và mang tính cách can thiệp rõ rệt, tương tự như chủ trương của Franklin
Rosevelt, qua đời không lâu trước đó vào tháng tư năm 1945. Quả thật ông rất
xứng đáng được trao tặng giải Nobel Hòa Bình năm 1968.
17 - Bản dịch tiếng Pháp của bài thơ "sonnet
116" của Shakespeare:
"Aux
noces de deux esprits fidèles
Je
ne peux admettre d'empêchement: l'amour n'est pas l'amour
S'il
change lorsqu'il trouve ailleurs,
Ou
s'éloigne lorsqu'il voit l'autre s'éloigner.
Oh
non! il est un feu à la flamme immuable
Au
coeur de la tempête, jamais ébranlé!
C'est
une étoile pour tout navire errant,
Dont
on mesure la hauteur, si on l'ignore les effets.
L'amour
n'est pas le buffon du temps;
Même
si ses lèvres et ses joue roses
Sont
tranchées par l'arc de sa faux;
Il
ne subit pas l'altération des jours et des semaine,
Mais
survit inchangé jusqu'à la fin des temps.
Si
je dis faux, qu'on me le prouve, je répondrais:
Je
n'ai jamais écrit et nul n'a jamais aimé"
(Bản dịch tiếng Pháp của nhà xuất
bản Indigène)
(William Shakespeare (1564-1614) là soạn kịch gia, văn hào
và thi sĩ lớn nhất trong lịch sử văn hóa nước Anh. Bài thơ 14 câu trên đây của
ông thuộc vào thể loại gọi là "sonnet", tức một thể loại gồm hai hoặc
ba tiết bốn câu và hai câu kết luận.
Bài
thơ này đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ, thế nhưng không mấy khi các bản dịch
lột được hết ý, sự súc tích cũng như sức mạnh trong hơi thơ của ông. Một thí dụ
cụ thể là bản dịch của nhà xuất bản trên đây cũng cho thấy một vài chỗ còn sơ
sót, chẳng hạn như trong nguyên bản (câu 5 và 6) Shakespeare ví tình yêu như
một ngọn hải đăng nhìn vào bảo táp và không hề bị chao đảo. Ngọn hải đăng chẳng
những luôn vững vàng trước phong ba mà còn hướng dẫn cho thuyền bè không lạc
bến. Bản tiếng Pháp trên đây lại dịch là ngọn lửa không lay động giữa cơn bảo
tố, thì quả thật không diễn tả được ý và sức mạnh trong hai câu thơ của
Shakespeare.
Ngoài
ra trong bài thơ của Shakespeare còn có hai câu khá cô đọng (các câu 9 và 10).
Trong hai câu này tác giả đưa ra ba hình ảnh liên tiếp: một tên hề, chiếc lưỡi
hái và môi đỏ má hồng. Vậy các hình ảnh này có ý nói lên điều gì? Vua chúa thời
xưa ở Âu Châu luôn có một vài tên hề bên cạnh để giúp vui, và tác giả đã mượn
hình ảnh này để nói lên là tình yêu không phải là một chuyện vui đùa hời hợt trong
chốc lát. Chiếc lưỡi hái tượng trưng cho thần chết và trong bài thơ thì tượng
trưng cho thời gian, và thời gian sẽ cướp đi những thú vui phù du của tuổi trẻ.
Phấn son trên môi và trên má của tên hề tượng trưng cho những gì giả tạo của
tình yêu. Hai câu này tương phản với hai câu tiếp theo (câu 11 và 12) và góp
phần làm nổi bật ý nghĩa của hai câu này.
Stéphane
Hessel ngâm bài thơ này tặng Đức Đạt-lai Lạt-ma là để "cụ thể hóa" sự
kính mến và yêu quý của mình đối với Ngài).
Bures-Sur-Yvette,
29.05.12
Hoang
Phong chuyển ngữ