chất và
tinh thần của con người. Rồi các thói quen khác như xây dựng nhà cửa,
trang phục quần áo, chế biến ẩm thực, sáng tác thơ, nhạc, họa v.v…hình
thành nếp sống văn hóa của một dân tộc. Nhưng trừ các bậc thánh trí, ít
ai ngờ rằng tập quán còn có ý nghĩa cực kỳ sâu xa hơn nữa, nó hình thành
nên mọi thứ, bao gồm cả vật chất, thế giới, văn hóa và tinh thần. Bài
này có mục đích nghiên cứu ý nghĩa sâu xa nhất của tập quán.
Trước hết hãy nêu lên câu hỏi : Vật chất là gì ? ví dụ một ly nước là gì
? Các bài trước đã nghiên cứu, nước chẳng là gì cả, nó cấu thành từ
quark, electron, đó là những hạt ảo, những loại hạt sơ cấp của vật chất.
Bản chất của vật chất và năng lượng là một, chúng chỉ khác nhau về hình
thức, vật chất có thể biến thành năng lượng theo công thức nổi tiếng
của Einstein :
E (năng lượng) = M (khối lượng vật chất) x C2 (vận tốc ánh sáng)
Vì vận tốc ánh sáng là rất lớn, khi bình phương lên thì lại càng lớn cực
kỳ. Thế nên một lượng vật chất nhỏ, chẳng hạn 1kg Uranium khi bị phá vỡ
bằng hiện tượng phân hạch, tức phá vỡ hạt nhân của nó để tạo ra một vài
loại nguyên tố khác, một phần nhỏ vật chất biến thành một năng lượng
khổng lồ dưới dạng ánh sáng và nhiệt, người ta sử dụng nhiệt phát ra để
đun sôi nước, hơi nước làm quay turbin phát điện, đó là điều đã được ứng
dụng trong nhà máy điện nguyên tử để sản xuất điện năng. Có thể nói
năng lượng (Energy) là hình thức phổ quát, chung nhất của tất cả các
loại nguyên tố vật chất. Phần tử nhỏ nhất của năng lượng gọi là lượng tử
(Quantum). Lượng tử cũng chỉ là hạt ảo, nó không hẳn là hạt, cũng không
hẳn là sóng, có thuyết nói nó như sợi tơ trời rung động tạo ra các biểu
hiện hạt cơ bản mà con người đã biết (Thuyết siêu dây- Superstring
theory, dây là vật một chiều có kích thước Planck, tức 10-33 cm (mười
lũy thừa trừ 33 centimét) đó là kích thước giới hạn của vật lý, kích
thước nhỏ hơn của toán học chỉ là hữu danh vô thực) nhưng khi lượng tử
xuất hiện dưới dạng cấu trúc vật chất (quark và electron) thì thành ra
khoảng hơn 100 loại nguyên tố vật chất khác nhau trong vũ trụ như
Hydrogen, Oxygen, Nitrogen, Carbon. Đây là 4 loại nguyên tố cơ bản hình
thành chất sống của sinh vật. Ngoài ra còn nhiều nguyên tố khác như Sắt,
Đồng, Chì, Kẽm, Magnesium, Nicken, Silic v.v…
Các nguyên tố vật chất như Hydrogen, Oxygen, Sắt, Đồng, Chì, Kẽm…là
không có thật, chúng chỉ là lượng tử, nhưng được tập quán tức thói quen
của tâm thức nhận thức là Hydrogen, Oxygen, Sắt, Đồng, Chì, Kẽm. Vậy vật
chất chỉ là thói quen nhận thức chứ không phải có thật. Chính vì vậy,
Phật giáo mới nói tới Triết học Tánh Không được trình bày trong bộ Trung
Quán Luận của Long Thọ Bồ Tát. Huệ Năng cũng có nói “Bản lai vô nhất
vật” cũng là ý đó. Vật chất chỉ là thói quen nhận thức của Tâm, điều này
cũng được trình bày tường tận trong bộ Thành Duy Thức Luận của ngài Hộ
Pháp mà Đại sư Huyền Trang đã phiên dịch ra Hán ngữ. Bộ Bát Nhã Ba La
Mật Đa Tâm Kinh ngắn gọn chỉ có 260 chữ, cũng do Huyền Trang dịch ra Hán
ngữ, mà các vị sư sáng chiều đều tụng, kể cả các vị sư đi tụng kinh đám
ma cũng đều có tụng, nói rõ :
舍利子。是諸法空相。
不生不滅。不垢不淨不增不減。是故空中。無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦
無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃
Xá-Lợi-Tử! thị chư pháp không tướng, bất sinh , bất diệt, bất cấu , bất tịnh, bất tăng , bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ , tưởng , hành , thức.
Vô nhãn , nhĩ , tỵ thiệt , thân , ý ; vô sắc ,thanh , hương , vị ,xúc , pháp ; vô nhãn giới ,nãi chí vô ý thức giới.
Vô Vô minh diệc , vô Vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.
Vô Khổ , Tập , Diệt , Đạo , vô Trí diệc vô Đắc, dĩ vô sở đắc cố ,
Bồ-đề-tát-đỏa, y Bát-nhã Ba-la-mật–đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại
cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên đảo mộng-tưởng, cứu cánh Niết-Bàn.
(Này Xá Lợi Phất, các pháp đều là không có thật, không sinh, không diệt,
không dơ, không sạch, không tăng, không giảm. Vì trong cái không, không
có vật chất; không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt tai mũi lưỡi
thân ý; không có sắc thanh hương vị xúc pháp; không có cảnh giới của
cái thấy, cho đến không có cảnh giới của ý thức. Không có vô minh, cũng
không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già
chết. Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo, không có Trí, cũng không có Đắc. Vì
không có Sở Đắc, Bồ Tát dựa vào Trí Bát Nhã, Tâm không dính mắc, vì
không dính mắc, không có sợ hãi, xa rời điên đảo mộng tưởng, cứu cánh
Niết Bàn).
Tóm lại ý kinh nói không có gì là thật cả, tất cả chỉ là huyễn ảo mà
người tu không nên dính mắc kể cả cứu cánh Niết Bàn, Niết Bàn cũng không
có thật. Qua Kinh điển, cũng như qua khảo sát khoa học, chúng ta thấy
rằng toàn bộ thế giới vật chất và tinh thần đều là ảo hóa, không có
thật. Sự ảo hóa đó không chỉ về mặt thấy và nghe (như chúng ta hiện đang
chứng nghiệm với thế giới ảo vi tính) mà còn bao trùm nhiều mặt khác
sâu xa hơn như ngửi, nếm, tương tác tiếp xúc, tiêu hóa tăng trưởng. Tóm
lại lục căn tiếp xúc với lục trần sinh ra lục thức, tất cả 18 cảnh giới
đều là ảo hóa. Bởi vậy, dù cho có mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi
nếm, thân thể tiếp xúc, ăn uống, tăng trưởng, có ý thức rõ ràng, đó cũng
không phải là sự thật hoàn toàn, bởi vì xét đến tận cùng, tất cả chỉ là
nhân duyên kết hợp, không một cái gì có thực thể, kể cả hư không cũng
không có thực, tất cả đều nằm trong tâm thức tưởng tượng mà Phật giáo
gọi là thế lưu bố tưởng. Vì tất cả chỉ là sự biến hiện được tâm nhận
thức nên trong tác phẩm Thành Duy Thức Luận do đại sư Huyền Trang biên
dịch, tác giả, ngài Hộ Pháp ( Dharmapala, 530-561) đã kết luận
một câu để đời “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Tất cả chỉ là tâm
thức mà thôi. Tâm thức đã tập thành thói quen nhiều đời nhiều kiếp để
nhận thức và định danh thế này là con trâu, thế kia là con ngựa, thế nọ
là con người; thế này là tốt, thế kia là xấu; thế này là khô ráo, thế
kia là ướt át. Ví dụ ta xem phim thấy cảnh mưa gió lụt lội, cho đó là
ướt át, thấy cảnh sa mạc nóng cháy, cho đó là khô ráo. Kỳ thực ướt át
hay khô ráo đều không có thật, đó chỉ là tâm cảnh, không có vật cảnh,
bởi vì không một vật nào có thực thể. Nhiều người thấy giống nhau, đó là
vì cộng nghiệp của họ giống nhau, chứ không phải có thực thể giống nhau
ở ngoại cảnh. Điều này hoàn toàn trái với nhận thức của khoa học cho
rằng vật chất là có thật, bởi vì trình độ của khoa học gia là có hạn, dù
là người tài giỏi như Einstein, vẫn là có hạn chế. Cuộc khủng hoảng của
ngành Vật lý học hiện nay, khi con người đã đi tới nhận thức về cơ học
lượng tử, đã thực nghiệm về hiện tượng rối lượng tử (Quantum
Entanglement) nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới mới té ngữa ra rằng
họ đã xây dựng lâu đài khoa học trên cát. Vật chất được hình thành từ
lượng tử, mà lượng tử chỉ là hạt ảo, chỉ có trong nhận thức chứ không
phải là vật thật, ngay cả nguyên tử cũng không phải là vật. Heisenberg,
(1901-1976 nhà vật lý lý thuyết người Đức, người phát minh ra nguyên lý
bất định, nói: “Atoms and elementary particles…form a world of
potentialities or possibilities, rather than one of things or
facts…atoms are not things” (Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành
một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế
giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật).
Để hiểu rõ thêm thói quen nhận thức tạo thành vật như thế nào, hãy xem bức hình dưới đây :
Nhìn khái quát thì đây là cội cây, nếu nhìn và tưởng tượng thêm chút xíu thì thấy cả chục gương mặt người trong đó.
Đó là ví dụ cho thấy thói quen tưởng tượng tạo ra vật, thói quen càng
hằn sâu bao nhiêu thì vật càng rõ ràng bấy nhiêu. Quá trình nhận thức là
so sánh vật bên ngoài với ký ức, vật nào quen thuộc sẽ được nhận ra
ngay tức thì, còn vật nào ít gặp thì sẽ mất nhiều thời gian hơn, ví dụ
người quen mấy chục năm không gặp có thể không còn nhận ra hoặc phải mất
một thời gian định tâm, đối chiếu, gợi nhớ mới nhận ra được. Thói quen
không chỉ ở ý thức, nó còn ở rất sâu trong tiềm thức, nó dính dáng tới
cả 6 giác quan (lục thức) chứ không phải chỉ ở thấy và nghe. Bên ngoài
là những cấu trúc ảo, bên trong là ký ức và ý thức, đó chính là cơ chế
tạo ra vật và tạo ra thế giới, tạo ra văn hóa và đời sống của muôn loài,
mà cao cấp nhất, phong phú nhất là con người.
Nếu thói quen bị tẩy sạch, kể cả ý thức lẫn tiềm thức thì vật không còn
hiện hữu. Đó là lý do tại sao Trương Bảo Thắng có thể đi xuyên qua bức
tường, bởi vì anh ta có thể chủ động bỏ qua thói quen nhận thức cho rằng
anh ta có một thân thể và có một bức tường ngăn cách. Kinh nói khi các
vị Bồ Tát tẩy sạch tập khí (tập quán hay thói quen) không còn gì dính
mắc thì tất cả đều là không, như đoạn kinh đã dẫn trên, thân ngũ uẩn
cũng không, tất cả 18 giới cũng đều không. Bồ Tát tự nhiên có đầy đủ
thần thông, không còn gì trở ngại, có thể sinh tử tự do, muốn đi tới
cảnh giới nào cũng được. Tưởng cũng cần nói rõ thêm rằng vạn pháp duy
thức có nghĩa là tất cả đều là thông tin, kể cả vật chất và năng lượng.
Lượng tử chính là đơn vị thông tin tự nhiên của thế giới, của vũ trụ vạn
vật, cũng như bit và byte là đơn vị thông tin của tin học do con người
sáng tạo. Bồ Tát có thể sử dụng lượng tử để tạo ra tức thời mọi vật thể
để đáp ứng một nhu cầu bức thiết nào đó mà không thể chờ đợi con người
tạo thành theo phương thức thông thường mất nhiều thời gian và cần nhiều
điều kiện. Ví dụ Kinh điển Thiên Chúa giáo có kể chuyện, trong một buổi
giảng đạo bên hồ Galilea có năm ngàn đàn ông tham dự, chưa kể đàn bà và
trẻ con, họ đói, nhưng người thân cận của Chúa Jesus chỉ có 5 ổ bánh mì
và 2 con cá, không thể chờ đợi ai mang thực phẩm đến để cho cả hơn năm
ngàn người ăn no bụng, Jesus đành phải hiển lộ thần thông, đã bẻ bánh và
cá chia cho tất cả những người tham dự buổi giảng đều được ăn no bụng.
Tức là Jesus đã dùng sức mạnh tâm linh, sử dụng lượng tử có sẵn vô lượng
trong không khí, trong nước hồ Galiea để tạo thành rất nhiều bánh, sau
khi đã chia cho tất cả ăn no bụng, vẫn còn dư lại 12 giỏ bánh.
Thiết tưởng cũng nên đề cập ở đây một vấn đề rất cốt lõi về mặt nhận
thức, đó là không gian, thời gian và số lượng vật chất cũng là do thói
quen tâm thức tạo ra chứ chẳng phải có thật. Nói khoảng cách không gian
không có thật, chắc là không ai có thể tin nổi, chẳng lẽ khoảng cách từ
Sài Gòn ra Hà Nội là không có thật hay sao ? Thật là không thể tưởng
tượng nổi ! Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể chứng minh bằng lý trí.
Không gian tùy thuộc vào tốc độ, chính vì tốc độ của chúng ta bị hạn chế
nên mới cảm thấy có không gian. Ta đi bộ trung bình khoảng 3km/giờ, đi
xe đạp 10km/g, đi xe hơi 60km/g, đi máy bay 800km/g…luôn luôn cần phải
mất một khoảng thời gian để vượt qua một khoảng cách không gian, chẳng
hạn đi máy bay từ Sài Gòn ra Hà Nội vượt quãng đường khoảng 1500km, phải
mất 1giờ 45 phút. Ta cảm nhận khoảng cách như ngắn lại vì máy bay đi
khá nhanh. Bây giờ nếu ta lên mạng internet, nói chuyện trực tuyến với
một người bạn bên Mỹ, vì tín hiệu truyền đi quá nhanh với tốc độ
300.000km/giây, khoảng cách 20.000km tín hiệu chỉ mất 1/15 giây đã tới,
ta không cảm nhận được, vì vậy cảm thấy tức thời, nhìn hình ảnh đối
phương sống động trước mắt, nghe tiếng nói rõ ràng và tức thời, ta cảm
thấy khoảng cách không gian không còn nữa, mọi nơi trên thế giới đều như
nhau, mọi khoảng cách đều triệt tiêu. Chính vì khoảng cách đã không còn
nên con người hiện nay thích thú ứng dụng điện toán đám mây. Chẳng hạn
tôi ở Việt Nam, nhưng tôi lưu trữ dữ liệu trong ổ đĩa Skydrive của
Windows Live bên Mỹ. Khi tôi đi bất cứ nơi đâu trên thế giới, vào bất cứ
lúc nào, tôi đều có thể lấy dữ liệu của mình ra dùng từ bất cứ chiếc
máy tính nào có nối mạng. Mà việc nối mạng hiện nay có thể thực hiện
bằng đường truyền ADSL, bằng WiFi, hoặc bằng 3G, điều đó cho phép tôi và
những người mà tôi muốn chia sẻ dữ liệu, có thể lấy được dữ liệu bất cứ
ở đâu : tại nhà, ngoài đường, trong quán cà phê, ở vùng nông thôn
xa…Tôi chỉ cần mang theo cái netbook hoặc máy tính bảng hay chỉ một cái
smartphone (điện thoại thông minh) nhỏ xíu. Tôi cũng có thể chia sẻ dữ
liệu, thư từ, nói chuyện trực tiếp qua Skype (miễn phí) với bạn bè hay
người thân ở bất cứ phương trời nào trên thế giới. Tại sao tôi làm được
như vậy ? Bởi vì với vận tốc truyền thông tin 300.000km/giây, tất cả mọi
khoảng cách không gian trên địa cầu đều không còn nữa, đó là điều rõ
ràng và hiện thực chứ không phải nói suông, mọi người đều có thể thực
nghiệm.
Thế còn khoảng cách mênh mông trong không gian vũ trụ xa hàng tỷ năm ánh
sáng thì sao ? Hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement) cho ta
câu trả lời thật rõ ràng : số lượng, thời gian , không gian đều không có
thật. Một photon có thể xuất hiện đồng thời ở nhiều vị trí khác nhau
trong không gian vũ trụ, không gian đó chỉ là do tâm thức tưởng tượng ra
chứ không có thật, bởi vì thí nghiệm tại Thụy Sĩ đã cho thấy hai vị trí
cách nhau 18km nhưng khi photon ở vị trí này bị tác động thì lập tức
photon ở vị trí kia bị tác động y hệt, không mất chút thời gian nào,
chẳng lẽ tín hiệu có thể truyền đi nhanh hơn ánh sáng gấp hàng triệu lần
? Sinh thời, Einstein rất bối rối trước hiện tượng này và không có lời
giải đáp, ông gọi đó là tác động ma quái từ xa (Spooky action at a
distance). Thật ra câu trả lời đã có sẵn trong Kinh Phật từ lâu rồi :
không gian vũ trụ không có thật, vạn vật cũng không có thật, chỉ là do
tâm thức biến hiện mà thôi (Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức). Đối
với Phật, Bồ Tát, không bị hạn chế bởi tốc độ, chỉ một niệm là đến thì
khoảng cách không gian vũ trụ mênh mông kia là không tồn tại. Vì vậy
Phật còn có danh hiệu là Như Lai nghĩa là không đi không đến, vì Phật
hiện diện khắp không gian, khắp thời gian.
Tóm lại chính thói quen của tâm thức tạo thành không gian vũ trụ, vạn
vật, con người, thế giới, văn hóa. Nếu cố chấp là thế giới có thật, vật
chất có thật…thì sinh lão bệnh tử, bát khổ, thiên tai hoạn nạn, chiến
tranh, áp bức, bất công sẽ có lý do gây đau khổ triền miên cho con
người. Tu hành là sửa đổi tập quán mê muội đó một cách sâu xa tận tiềm
thức mà Phật giáo gọi là a-lại-da thức. Giác ngộ là nhận ra và tự mình
thân chứng tất cả chỉ là không, thì sẽ thoát khỏi tất cả mọi khổ ách.
Tuy vậy bậc thánh trí giác ngộ không còn cố chấp, tức là không lọt vào
tứ cú (có, không, vừa có vừa không, chẳng có chẳng không) không cố chấp
bất cứ chỗ nào, trạng thái đó Kinh Kim Cang diễn tả bằng câu “Ưng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm” (Không có chỗ trụ thì xuất hiện cái tâm ấy). Thiền
gọi là kiến tánh thành Phật. Bậc thánh vẫn có thế lưu bố tưởng, tức cái
thấy và cảm nhận bình thường như mọi người, nhưng không còn trước tưởng,
tức cố chấp vào một cú nào đó trong tứ cú, vì vậy tự nhiên mà đạt tới
vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở úy và không còn khổ nữa.
Truyền Bình