Giác Ngộ:
Stephen William Hawking, sinh ngày 8 tháng Giêng năm 1942 là một nhà
Vật lý lý thuyết người Anh, đồng thời cũng là một nhà Vũ trụ học nổi
tiếng nhờ các tác phẩm khoa học và các lần ông xuất hiện trước quần
chúng. Ông là hội viên danh dự của Hội Nghệ thuật Hoàng gia Anh (Royal
Society of Arts), hội viên vĩnh viễn của Viện Khoa học Giáo hoàng
(Pontifical Academy of Sciences) và vào năm 2009, được trao tặng Huy
chương Tổng thống về Tự do là huy chương dân sự cao quý nhất của Mỹ.
Ông Hawking là giáo sư Toán tại Đại học Cambridge
trong 30 năm (1979-2009), ngồi ở ghế và lấy danh vị giáo sư mà ông Issac
Newton đã từng ngồi trước đó. Ông cũng là giáo sư danh dự tại Đại học
Gonville và Caius College ở Cambridge và là Khoa trưởng về Nghiên cứu
Vật lý lý thuyết tại Viện Perimeter Institute for Theoretical Physics ở
Waterloo, bang Ontario, Canada.
Ông được biết đến nhờ những đóng góp trong lãnh vực
Vũ trụ học và về môn Trọng lực lượng tử (quantum gravity), nhất là trong
môi trường lỗ đen (black holes). Ông cũng thành công với những tác phẩm
khoa học phổ thông đề cập đến lý thuyết của riêng ông hay của vũ trụ
học nói chung. Ba trong số nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông là A Brief History of Time (Bantam, Press 1988, bản dịch tiếng Việt: Lược sử của thời gian), The Universe In A Nutshell (Bantam Press, 2001) và mới đây nhất, viết chung với Leonard Mlodinow, là The Grand Design (Bantam Press, 2010).
Về cơn bệnh ngặt nghèo và về những phát minh và cống
hiến cho tri thức khoa học nhân loại của ông, xin xem sơ lược trong
wikipedia: http://en.wikipedia.org/wiki/Stephen_Hawking.
Còn về tôn giáo, nhất là những tôn giáo tin vào một
Chúa Trời độc thần của Tây phương, trong các tác phẩm đầu tiên, ông dùng
từ "Chúa" theo nghĩa ẩn dụ (metaphorical) nhưng như được trình bày
trong A Brief History of Time, ông cũng cho rằng không cần thiết
phải có sự hiện hữu của Chúa mới giải thích được nguồn gốc của vũ trụ
(the existence of God was unnecessary to explain the origin of the
universe). Tuy nhiên, trong tác phẩm mới nhất, The Grand Design, cũng như trong cuộc phỏng vấn với báo Telegraph và chương trình "Thiên tài của Anh quốc"
(Genius of Britain) của kênh truyền hình số 4, ông đã giải thích rõ hơn
rằng ông "không tin vào một Chúa nhân cách hóa" ("not believe in a
personal God"). Ông viết rằng "Câu hỏi là: Cách thế mà vũ trụ khởi đầu
thì do Chúa lựa chọn vì những lý do mà chúng ta không hiểu nổi, hay vì
được xác định bởi các định luật của khoa học? Tôi tin là vì các định
luật khoa học". Ông nói thêm: "Vì có những định luật như định luật về
trọng lực nên vũ trụ có thể và sẽ tự sinh từ hư không" ("Because there
is a law such as gravity, the Universe can and will create itself from
nothing").
Trong một cuộc phỏng vấn của chương trình truyền hình ABC
(Mỹ) vào ngày 7 tháng 6 năm 2010, ông đã so sánh tôn giáo và khoa học
như sau: "Có một sự khác biệt cơ bản giữa tôn giáo, vốn đặt cơ sở trên
quyền lực [áp đặt tín điều, niềm tin], [đối chọi với] khoa học, đặt cơ
sở trên quan sát và lý trí. [Đó là] Khoa học sẽ thắng vì khoa học làm có
kết quả " (Hawking compared religion and science in 2010, saying:
"There is a fundamental difference between religion, which is based on
authority [imposed dogma, faith], [as opposed to] science, which is
based on observation and reason. Science will win because it works").
Mới đây nhất, tuần san TIME của Mỹ số ra ngày
15 tháng 11 năm 2010, trong mục "10 Questions", một diễn đàn để độc giả
khắp thế giới đặt câu hỏi trực tuyến đến các nhân vật nổi tiếng, đã đăng
kết quả độc giả chất vấn ông Stephen Hawking qua 10 câu hỏi sau đây:
1. Nếu Chúa Trời không hiện hữu, tại sao quan niệm về sự hiện hữu [của Chúa Trời] đó lại trở nên khá phổ thông? – Basanta Borah, Basel, SWITZERLAND.
- Tôi không khẳng định rằng Chúa Trời thì không hiện
hữu. Chúa Trời là cái danh xưng mà người ta đặt cho lý do vì sao chúng
ta ở đây. Nhưng tôi tin rằng lý do đó là những định luật vật lý chứ
không phải một người nào đó mà ta có thể có những quan hệ riêng tư. Một
loại Chúa Trời chung chung (an impersonal God).
2. Vũ trụ có biên giới không? Nếu có, thì ngoài biên giới đó là cái gì? Paul Pearson, Hull, ENGLAND.
- Những quan sát xác nhận rằng vũ trụ giãn nở với một
tốc độ càng lúc càng gia tăng. Vũ trụ sẽ giãn nở mãi mãi, trống rỗng
hơn và tối tăm hơn. Tuy vũ trụ không có một tận cùng nhưng nó lại có một
khởi đầu tại Big Bang. Người ta có thể hỏi vậy thì trước đó là gì, câu
trả lời là trước Big Bang thì không có gì cả, giống như không có gì ở
phía Nam của Nam cực vậy.
3. Ông có nghĩ rằng nền văn minh của chúng ta tồn tại đủ lâu để lan vào được trong không gian xa vời không? Harvey Bethea, Stone Mountain, bang GEORGIA.
- Tôi nghĩ rằng chúng ta có nhiều hy vọng tồn tại đủ
lâu để chinh phục Thái dương hệ. Tuy nhiên, trong hệ này, không đâu phù
hợp với chúng ta hơn Trái đất, do đó, tôi không rõ là liệu chúng ta còn
hiện hữu không khi mà Trái đất không còn phù hợp cho cuộc sống của chúng
ta nữa. Để bảo đảm sự sống sót lâu dài, chúng ta phải lên những ngôi
sao. Hãy hy vọng rằng chúng ta còn sống sót cho đến ngày đó.
4. Nếu ông có thể nói chuyện với ông Albert Einstein, ông sẽ nói gì? Ju Huang, Stamford, bang CONNECTICUT.
- Tôi sẽ hỏi tại sao ông đã không tin vào sự hiện hữu
của các lỗ đen (black holes). Những phương trình trường (field
equations) của thuyết tương đối hàm uẩn rằng một ngôi sao lớn hay một
đám mây khí lớn sẽ sụp đổ vào trong chính nó và tạo ra lỗ đen. Ông
Einstein đã biết điều này nhưng không hiểu tại sao lại tự cho rằng một
điều gì đó như một sự nổ tung sẽ luôn luôn xảy ra để tạo ra khối lượng
và ngăn ngừa lỗ đen thành hình. Vậy nếu không có sự nổ tung này thì điều
gì xảy ra?
5. Khám phá hay tiến bộ khoa học nào ông muốn thấy trong cuộc đời của ông? Luca Zanzi, Allston, bang MASSACHUSETTS.
- Tôi muốn thấy sự hỗn hợp hạt nhân (nuclear fusion)
trở thành một nguồn năng lượng thực tiễn. Nguồn nầy sẽ cung cấp năng
lượng vô tận, không bị ô nhiễm hay hâm nóng địa cầu.
6. Ông nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra cho ý thức (consciousness) của chúng ta sau khi chết? Elliot Giberson, Seattle, bang WASHINGTON.
- Tôi nghĩ rằng bộ óc chúng ta giống như một máy vi
tính, và ý thức thì giống như một chương trình điện toán. Chương trình
này sẽ ngưng chạy khi máy vi tính bị tắt đi. Một cách lý thuyết, ý thức
có thể tái tạo trên một hệ thống thần kinh (neural network), nhưng chắc
là khó lắm vì nó sẽ đòi thu nhập tất cả ký ức/bộ nhớ của mỗi người.
7. Ông nổi tiếng như là một Vật lý gia kiệt xuất, ông có những quan tâm bình thường nào làm người ta ngạc nhiên không? Carol Gilmore, Jefferson City, bang MISSOURI.
- Tôi thưởng thức được tất cả mọi loại nhạc - dân ca,
cổ điển và opera. Tôi cũng chia sẻ thú vui với Tim, con trai của tôi,
về cuộc đua xe hơi Formula One.
8. Ông nghĩ rằng những giới hạn thể chất của ông thì đã giúp thêm hay cản trở công việc nghiên cứu của ông? Marianne Vikkula, Espoo, FINLAND.
- Mặc dù tôi đã bất hạnh bị bệnh về cơ vận động thần
kinh (neuron motor), nhưng tôi lại rất có phúc trên hầu hết những điều
khác. Tôi may mắn được làm việc trong lãnh vực Vật lý lý thuyết, một
trong vài lãnh vực hiếm hoi mà tình trạng tàn tật không phải là một bất
lợi trầm trọng, và may mắn được trúng số to nhờ mấy cuốn sách bán khá
chạy.
9. Ông có cảm thấy một trách nhiệm to lớn đè lên mình khi có người mong chờ ông trả lời được bí mật của đời sống không? Susan Leslie, Boston, bang MASSACHUSETTS.
- Chắc chắn là tôi không có giải đáp cho tất cả mọi
vấn nạn về cuộc sống. Trong khi Toán học và Vật lý học có thể cho chúng
ta biết vũ trụ đã khởi đầu như thế nào, hai môn này lại rất ít công dụng
giúp chúng ta tiên đoán được ứng xử của con người vì (tìm hiểu con
người thì) có quá nhiều phương trình phải giải. Tôi không giỏi hơn ai cả
khi tìm hiểu điều gì làm cho người ta nổi quạu, nhất là đàn bà.
10. Ông có nghĩ rằng đến một lúc nào đó, nhân loại sẽ hiểu được tất cả những gì cần hiểu về Vật lý không? Karsten Kurze, Bad Honnef, GERMANY.
- Tôi hy vọng là không bao giờ có thời điểm đó cả. [Tại vì nếu có] Tôi sẽ thất nghiệp mất.
(Theo Time Magazine) California 11-2010
Trí Tánh ĐHT dịch
Ý Kiến bạn đọc:
Đạo Phật & nhà khoa học Stephen William Hawking
Ông Stephen William Hawking
là nhà khoa học lỗi lạc tuy vậy không có nghĩa ông ta có thể dùng lý
luận khoa học để đo lường tôn giáo và nhận định chủ quan theo ý riêng .
Những
lời phát biểu gần đây của ông bất cập , lúc thì phủ nhận Đức Chúa Trời ,
lúc thì lại công nhận sự hiện hữu Đức Chúa Trời .
Kiến thức khoa
học dù có tiến bộ phát triển vượt bậc thế mấy thì cũng chỉ là hạt cát so
với tôn giáo vốn vô tận vô biên vĩnh hằng .
Theo giáo lý đạo Phật có phân định rõ giữa khoa học & tôn giáo .
Có
lẽ ông Hawking là nhà khoa học nên có quan điểm nhìn thế giới với lăng
kính khoa học mà không biết rằng khoa học luôn thay đổi theo nhận thức
của con người về nhân sinh và vũ trụ . Theo Đức Phật thì giữa kiến thức
khoa học và trí tuệ tôn giáo thì nghĩa của nó khác nhau xa. Bởi trí thức
của người đời nói, đó là thứ trí thức bởi do khám phá các hiện tượng tự
nhiên và xã hội , do tích tụ kinh nghiệm mà có. Nói rõ hơn, là do khám
phá , học hỏi bởi những môi trường chung quanh mà có, như hấp thụ kinh
nghiệm kiến thức qua các lãnh vực của đời sống từ trong gia đình, nhà
trường và xã hội. Kiến thức khoa học này không cố định mà thay đổi theo
thời gian . Trong nhà Phật gọi đây là Hữu sư trí. Tức thứ trí có được do
vay mượn bên ngoài đem vào mà tạm có ra do vậy mà kiến thức khoa học
này mang tính tương đối .
Ngược lại, trí tuệ mà được gọi là Vô sư
trí, tức trí tuệ không do sự vay mượn tìm tòi bên ngoài mà được. Mà tự
nó sẵn có, nhưng sở dĩ nó không hiển lộ được là do phiền não , nghiệp
lực che ngăn. Nhờ tu tập thúc liễm tinh tấn bên trong nội tâm Tâm thức
thì trí tuệ này sẽ hiện bày. Trí huệ này là bất biến , là cố định , là
vô lượng vô biên vì nhìn ra sự thật chân lý vĩnh hằng .
Kiến thức
khoa học của thế gian còn trong phạm vi phân biệt, chấp trước , còn
giới hạn , hay thay đổi bởi do tìm tòi tích tụ kinh nghiệm vay mượn bên
ngoài mà có. Đây là thứ trí thức thuộc Hữu lậu pháp, hay thế trí biện
thông. Ngược lại, trí huệ là cái trí Bát nhã do tu tập bên trong Tâm
thức mà có không do vay mượn bên ngoài. Trí huệ nầy khi phát sáng toàn
triệt, thấu hiểu bao trùm toàn thể vũ trụ , nhân sinh.
Các định
luật tự nhiên của vũ trụ không tự nhiên mà có . Đức Phật cũng không điều
khiển được các định luật này , mà Ngài chỉ tuân theo nó . Không có Đức
Phật thì các định luật tự nhiên vẫn vận hành theo nguyên lý vũ trụ ,
điển hình như luật nhân quả .Tất cả mọi thành tựu của khoa học kỷ thuật
mang lại cho con người chỉ mang đến một ít tiện nghi cho đời sống và
không có ý nghĩa gì so với sự thành tựu tâm linh giải thoát an lạc vĩnh
hằng .
Quang Đạt