Với tư cách là nhà vật lý thiên văn nghiên cứu sự  hình thành
 và tiến hóa của các thiên hà, công việc khiến tôi thường  xuyên phải tự
 vấn về các khái niệm như thực tại, vật chất, thời gian và  không gian. 
Là một người Việt Nam lớn lên trong truyền thống Phật giáo,  tôi không 
thể không tự hỏi rằng Phật giáo nhìn nhận các khái niệm này  như thế 
nào. Nhưng tôi không chắc rằng một phương pháp nhằm đối chiếu  khoa học 
và Phật giáo có thể có một ý nghĩa nào đó.
Tôi biết, trước hết, khía cạnh thực tiễn của  Phật giáo là giúp người
 ta hiểu được được chính mình, tấn tới về tinh  thần, trở thành một 
người tốt hơn. Đối với tôi, Phật giáo trước hết là  một con đường dẫn 
đến Giác ngộ, một hoạt động chiêm nghiệm với cái nhìn  chủ yếu hướng 
nội. Hơn nữa, khoa học và Phật giáo sử dụng các phương  pháp nghiên cứu 
thực tại một cách hoàn toàn khác nhau. Trong khoa học,  trí tuệ và lý 
trí đóng vai trò chính. Bằng cách phân chia, phân loại,  phân tích, so 
sánh và đo đạc, nhà khoa học biểu diễn các quy luật của tự  nhiên bằng 
thứ ngôn ngữ hoàn thiện là toán học. Trực giác chắc chắn  không vắng 
bóng trong khoa học, nhưng nó chỉ có ích nếu nó có thể hòa  chảy vào một
 phát biểu toán học chặt chẽ. Ngược lại, trực giác – trải  nghiệm bên 
trong – lại đóng vai trò hàng đầu trong phương pháp chiêm  nghiệm. Nó 
không cố gắng phân đoạn thực tại, mà tìm cách lĩnh hội thực  tại trong 
tổng thể của nó. Phật giáo không sử dụng các dụng cụ đo đạc  cũng như 
các quan sát tinh vi vốn cung cấp cơ sở thực nghiệm cho khoa  học. Các 
phát biểu của Phật giáo có bản chất định tính hơn là định  lượng. Tôi đồ
 rằng Phật giáo chỉ có rất ít thứ để nói về bản chất của  thế giới hiện 
tượng, vì đó không phải là mối bận tâm chính của Phật  giáo, trong khi 
đó nó lại là mối quan tâm cơ bản của khoa học.
Nhiều  thí nghiệm vật lý đã chỉ cho chúng ta thấy tính tổng thể của 
thực tại  này. Trong thế giới nguyên tử và dưới nguyên tử, các thí 
nghiệp kiểu EPR  (xem mục từ này) nói với chúng ta rằng thực tại là “bất
 khả tách”, rằng  hai hạt ánh sáng đã tương tác với nhau vẫn sẽ tiếp tục
 là bộ phận của  một và chỉ một thực tại: dù khoảng cách giữa chúng có 
là bao nhiêu chăng  nữa, thì hành trạng của chúng cũng tương liên tức 
thì mà không cần bất  kỳ một sự truyền thông tin nào. Còn về thế giới vĩ
 mô, tính tổng thể của  nó đã được chứng minh bằng con lắc Foucault (xem
 mục từ này) có hành  trạng không phải phù hợp với môi trường địa 
phương, mà là với toàn vũ  trụ. Cái được tổ chức trên Trái đất chúng ta 
đã được quyết định trong  mênh mông bao la của vũ trụ.
Khái  niệm sự phụ thuộc lẫn nhau nói rằng các sự vật hiện tượng không
 thể  được định nghĩa một cách tuyệt đối, mà chỉ tương đối so với các sự
 vật  hiện tượng khác. Về bản chất, chính ý tưởng này cũng là định nghĩa
 của  nguyên lý tương đối về chuyển động trong vật lý, được Galileo phát
 hiện,  và sau đó được Einstein lấy lại và phát triển lên tột đỉnh. 
“Chuyển  động như không”, Galileo từng nói. Ý ông muốn nói ở đây là 
chuyển động  của một vật không thể được xác định một cách tuyệt đối, mà 
chỉ là so với  chuyển động của một vật khác. Không một thí nghiệm hay 
phép đo nào được  thực hiện bởi một hành khách trên một toa tầu chạy 
không có tiếng động  với vận tốc không đổi và tất cả các rèm cửa sổ đều 
được buông xuống  khiến anh ta không thể biết được toa tầu của mình đang
 đứng im hay  chuyển động. Chỉ bằng cách kéo rèm lên và nhìn khung cảnh 
trôi qua thì  hành khách đó mới nhận ra. Chừng nào còn chưa có một sự 
quy chiếu với  bên ngoài, thì chừng ấy chuyển động là tương đương với 
không chuyển  động. Phật giáo nói: các sự vật không có tồn tại tự thân, 
mà chỉ có so  với các sự kiện khác. Còn nguyên lý tương đối nói: chuyển 
động chỉ có  thực tại so với khung cảnh trôi qua.
Thời  gian và không gian cũng đã mất đi tính tuyệt đối mà Newton đã 
trao cho  chúng (xem: Không-thời gian). Einstein nói với chúng ta rằng 
chúng chỉ  có thể được định nghĩa một cách tương đối, tức là đối với 
chuyển động  của người quan sát và cường độ của trường hấp dẫn tại nơi 
mà anh ta đang  ở. Tại điểm kỳ dị của một lỗ đen (xem mục từ này), lực 
hấp dẫn mạnh tới  mức ngay cả ánh sáng cũng không thể thoát ra khỏi, thì
 một giây có thể  dài bằng cả thiên thu. Giống như Phật giáo, thuyết 
tương đối nói rằng sự  trôi của thời gian, với một quá khứ đã qua và một
 tương lai còn chưa  tới, chỉ là ảo giác, vì tương lai của tôi có thể là
 quá khứ của một  người khác và là hiện tại của một người thứ ba: tất cả
 phụ thuộc vào  chuyển động tương đối của chúng ta. Thời gian không 
trôi, nó đơn giản  chỉ tồn tại ở đó mà thôi.
Bắt  nguồn trực tiếp từ khái niệm phụ thuộc lẫn nhau mà có khái niệm 
trống  rỗng. Trống rỗng không có nghĩa là hư không, mà là sự vắng bóng 
tồn tại  riêng. Bởi vì tất cả phụ thuộc lẫn nhau, nên không gì có thể 
được xác  định cũng như tồn tại tự thân. Khái niệm về các tính chất nội 
tại tồn  tại tự chính chúng và bởi chính chúng cũng không còn đúng nữa. 
Nhưng chú  ý! Phật giáo không nói rằng các sự vật không tồn tại, bởi vì 
chúng ta  có trải nghiệm về nó. Phật giáo không có thái độ hư vô mà 
người ta  thường gán một cách sai lầm cho nó. Phật giáo khẳng định rằng 
sự tồn tại  này là không tự lập, mà phụ thuộc lẫn nhau, và như vậy tránh
 được quan  điểm duy vật về thực tại. Phật giáo chấp nhận quan điểm 
trung dung, theo  đó một hiện tượng không có tồn tại tự lập, nhưng không
 vì thế mà không  tồn tại, và có thể tương tác và vận hành theo các quy 
luật nhân quả: đó  là điều mà Phật giáo gọi là “Trung Đạo” vậy.
Một  lần nữa, vật lý lượng tử cung cấp cho chúng ta một ngôn ngữ 
tương đồng  một cách đáng ngạc nhiên. Theo Bohr và Heisenberg, chúng ta 
không thể  nói về các nguyên tử hay electron như các thực thể thực có 
các tính chất  rất xác định, như vận tốc hay vị trí nữa. Chúng ta phải 
xem chúng như  tạo thành một thế giới không có các vật và các sự kiện 
nữa, mà chỉ có  các tiềm năng. Chính bản chất của vật chất và của ánh 
sáng cũng trở  thành một trò chơi của các mối quan hệ phụ thuộc lẫn 
nhau: nó không còn  có tính chất nội tại nữa, mà có thể thay đổi bởi 
tương giác giữa người  quan sát và vật được quan sát. Bản chất này không
 còn duy nhất nữa, mà  là lưỡng tính và bổ sung cho nhau. Hiện tượng mà 
chúng ta gọi là “hạt”  lại có dạng sóng khi người ta không quan sát nó. 
Nhưng ngay khi có phép  đo hay quan sát, là nó lập tức khoác trở lại tấm
 áo hạt. Nói về một hiện  thực nội tại đối với một hạt, một hiện thực 
tồn tại mà ta không quan  sát nó, là không có nghĩa, vì người ta không 
bao giờ có thể lĩnh hội  được nó. Tán đồng quan niệm của Phật giáo về 
samskara (nghĩa là “sự  kiện”), cơ học lượng tử tương đối hóa một cách 
triệt để khái niệm vật  bằng cách bắt nó phụ thuộc vào khái niệm đó, 
nghĩa là khái niệm sự kiện.  Hơn nữa, sự nhòe mờ lượng tử áp đặt một 
giới hạn cơ bản cho sự chính  xác của phép đo hiện thực này: sẽ luôn tồn
 tại một sự bất định nào đó  hoặc là trong vị trí, hoặc là trong vận tốc
 của một hạt. Vậy là vật chất  đã mất đi thực thể (substance) của nó.
Quan  niệm của Phật giáo về sự phụ thuộc lẫn nhau là đồng nghĩa với 
trống  rỗng, đến lượt nó, trống rỗng lại đồng nghĩa với vô thường. Thế 
giới như  một luồng khổng lồ các sự kiện và các dòng chảy động, tất cả 
đều kết  nối với nhau và tương tác liên tục với nhau. Quan niệm về sự 
thay đổi  liên tục và hiện diện khắp nơi này giống với những điều mà vũ 
trụ học  hiện đại nói. Tính bất biến của trời theo Aristotle và vũ trụ 
tĩnh của  Newton không còn nữa. Tất cả đều chuyển động, tất cả đều thay 
đổi, và  tất cả đều là vô thường, từ nguyên tử nhỏ nhất cho tới các 
thiên hà, các  ngôi sao, con người và toàn vũ trụ. Được đẩy bởi một vụ 
nổ khởi thủy,  vũ trụ loãng dần đi. Bản chất động này được mô tả trong 
các phương trình  của thuyết tương đối. Với lý thuyết Big Bang, vũ trụ 
có một lịch sử. Nó  có một khởi đầu, một quá khứ, một hiện tại và một 
tương lai. Một ngày  nào đó nó sẽ chết trong một lò lửa địa ngục cháy 
rừng rực hoặc trong sự  lạnh lẽo băng giá. Tất cả các cấu trúc của vũ 
trụ - các hành tinh, sao,  thiên hà hay đám thiên hà – cũng đều chuyển 
động liên tục và tham gia  vào một vũ điệu vũ trụ khổng lồ (xem mục từ 
này): chuyển động quay quanh  mình nó, quay quanh các thiên thể khác, 
rời xa hay sáp lại gần nhau.  Chúng cũng có một lịch sử: chúng sinh ra, 
tiến hóa và chết. Các sao tuân  theo các chu kỳ sinh tử đo bằng hàng 
triệu, thậm chí hàng tỉ năm
Thế  giới nguyên tử và dưới nguyên tử cũng không là ngoại lệ. Cả ở đó
 cũng  vậy, tất cả đều vô thường. Các hạt có thể thay đổi bản chất: một 
quark  (viên gạch cơ bản của vật chất) có thể thay đổi họ hoặc “vị”, một
 proton  có thể trở thành một nơtron kèm theo sự phát ra một positon 
(phản hạt  của electron) và một nơtrino (xem mục từ này), vật chất có 
thể biến  thành năng lượng thuần túy. Chuyển động của một hạt có thể 
biến thành  hạt, hoặc ngược lại. Nói cách khác, tính chất của một vật có
 thể biến  thành vật. Nhờ sự mờ nhòe lượng tử của năng lượng, không gian
 bao quanh  chúng ta có một số lượng lớn không thể tưởng tượng nổi các 
hạt gọi là  “ảo”, tồn tại hư ảo và ngắn ngủi. Xuất hiện và biến mất 
trong các chu kỳ  sinh tử vô cùng ngắn, chúng là những bằng chứng rõ 
ràng nhất của sự vô  thường.
Khi trình  bày các quan niệm tương đồng này về thực tại, ở đây tôi 
không hề có ý  định gán cho khoa học các dấu ấn thần bí cũng như không 
hề bênh vực Phật  giáo bằng các phát minh của khoa học. Khoa học vận 
hành một cách hoàn  hảo và đạt được mục địch mà nó đã đề ra (hiểu được 
các hiện tượng) mà  không hề cần một giá đỡ triết học nào của Phật giáo 
hay của một tôn giáo  nào khác. Phật giáo, bản thân nó, là một khoa học 
về Giác ngộ, và dù  Trái đất có quay quanh Mặt trời hay ngược lại cũng 
chẳng làm thay đổi  gì. Nhưng bởi vì khoa học và Phật giáo đều đại diện 
cho một cách tìm  kiếm chân lý mà các tiêu chí của chúng đều là: xác 
thực, chặt chẽ và  logic, cách nhìn nhận thực tại tương ứng của chúng 
chắc không dẫn đến sự  đối lập không thể giải quyết được mà, ngược lại, 
sẽ bổ sung cho nhau  một cách hài hòa. Tôi chỉ có thể tán đồng với nhà 
vật lý Werner  Heisenberg khi ông viết: “Tôi cho rằng tham vọng vượt qua
 các mặt đối  lập, bằng cách đưa vào sự tổng hợp thâu tóm cả sự hiểu 
biết lý tính và  trải nghiệm thần bí về sự thống nhất, là mythos, là sự 
tìm kiếm, được  nói ra hay không nói ra, của thời đại chúng ta”.
Sau  các tranh luận với Matthieu Ricard, tôi càng khâm phục cách Phật
 giáo  phân tích thế giới các hiện tượng. Phật giáo thực hiện điều đó 
một cách  sâu sắc và độc đáo. Nhưng không được quên rằng mục đích tối 
hậu của khoa  học và của Phật giáo là không giống nhau. Khoa học dừng 
lại ở nghiên  cứu và giải thích các hiện tượng, trong khi đối với Phật 
giáo mục đích  là chữa trị. Bằng cách lĩnh hội bản chất thực của thế 
giới vật lý, chúng  ta có thể giải phóng mình khỏi những đau khổ sinh ra
 từ sự chấp trước  của chúng ta với thực tại biểu kiến của thế giới bên 
ngoài và tiến lên  con đường Giác ngộ. Khoa học, bản thân nó là trung 
tính: nó không quan  tâm đến đạo đức hay luân lý; những ứng dụng kỹ 
thuật của nó có thể là  thiện hoặc ác đối với chúng ta. Ngược lại, sự 
chiêm nghiệm có mục đích  là tạo những biến đổi bên trong chúng ta và 
phát triển trong chúng ta  lòng trắc ẩn, để chúng ta có khả năng giúp đỡ
 người khác. Khoa học sử  dụng các công cụ ngày càng hoàn thiện hơn, 
nhưng trong chiêm nghiệm,  tinh thần là công cụ duy nhất. Chiêm nghiệm 
xem xét sự vận hành của các  tư tưởng và tìm cách hiểu các tư tưởng này 
xâu chuỗi với nhau như thế  nào để cuối cùng gắn kết với nó. Nó quan sát
 các cơ chế của hạnh phúc và  đau khổ, và cố gắng nhận diện các quá 
trình tinh thần mang lại sự bình  yên bên trong và sự thỏa mãn, để phát 
triển chúng và những quá trình,  ngược lại, phá hủy sự bình yên đó, để 
loại trừ chúng. Khoa học mang lại  cho chúng ta thông tin, nhưng không 
có liên quan gì với sự tiến bộ về  tính thần cũng như sự thay đổi bên 
trong của chúng ta. Ngược lại, cách  tiếp cận chiêm nghiệm phải gây ra 
trong chúng ta một sự thay đổi cá nhân  sâu sắc trong cách tri giác thế 
giới và tác động lên thế giới. Phật tử,  khi ý thức được rằng các vật 
không tồn tại một cách tự lập, đã giảm bớt  sự chấp trước của mình với 
chúng, và như vậy sẽ làm cho người đó bớt  đau khổ hơn. Trước cùng một 
nhận định, nhà khoa học bằng lòng với việc  coi nó như một tiến bộ trí 
tuệ mà không đặt vấn đề xem xét lại thế giới  quan sâu sắc cũng như cách
 sống của mình.
Trước  các vấn đề đạo đức hay luân lý cấp thiết – chẳng hạn như trong
 lĩnh vực  di truyền - nhà khoa học phải cần đến tâm linh để giúp anh ta
 không  quên nhân tính của mình. Einstein đã thể hiện điều đó hết sức 
đáng khâm  phục: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. 
Nó sẽ phải  vượt lên trên ý tưởng về một Thiên Chúa nhân hóa, và thoát 
khỏi các giáo  điều và thần học. Bao trùm cả cái tự nhiên lẫn cái tinh 
thần, nó sẽ  phải dựa trên một ý nghĩa tôn giáo sinh ra từ sự trải 
nghiệm tất cả các  sự vật, tự nhiên cũng như tinh thần, coi như một tổng
 thể có ý nghĩa…  Phật giáo đáp ứng được mô tả này… Nếu tồn tại một tôn 
giáo có thể phù  hợp với các đòi hỏi cấp bách của khoa học hiện đại, thì
 đó chính là Phật  giáo”.
Trích: Trịnh Xuân Thuận, Từ điển yêu thích Bầu trời và các Vì sao, NXB Tri thức, 2011