Dẫn nhậpTừ
Ấn Độ du nhập vào Trung Quốc, Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập vào các
hệ tư tưởng văn hóa - tôn giáo bản địa. Trong quá trình du nhập, hình
thành và phát triển có thể nói Phật giáo Trung Quốc đã tạo ra bản sắc
riêng so với nguồn cội Ấn, đồng thời đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống
tư tưởng - văn hóa Trung Quốc. Công lao ấy thuộc về các bậc cao Tăng của
nhiều thế hệ Phật giáo Trung Quốc. Đây là ý kiến nhận định chung của
các nhà nghiên cứu văn hóa - tư tưởng Trung Quốc: Giáo sư Zenryu
Tsukamoto trong tác phẩm The Path of the Buddha đã nhận định: "Chính
nhiều các thế hệ Thiền sư trong nỗ lực truyền giáo đã đưa tư tưởng và
nghệ thuật Phật giáo vào trong nền văn hóa Trung Quốc và đem lại sự thay
đổi vĩ đại trong văn hóa, triết học, văn học, nghệ thuật và ngay cả
trong các tập tục truyền thống của dân tộc Trung Quốc" (1).
Nội dung
I/ Phật giáo và Nho gia: sự tiếp xúc của hai nền văn hóa Á Đông
Văn
hóa Trung Quốc và Ấn Độ là hai nguồn tư tưởng văn hóa tối cổ của Á
Đông. Trước khi Phật giáo, đại diện cho luồng tư tưởng văn hóa Ấn Độ có
mặt tại Trung Quốc thì ngay tại bản địa đã hình thành nền văn hóa khá
cao. Trong hệ tư tưởng lúc bấy giờ, Nho gia theo tư tưởng hiện thực "lễ
nghi chủ nghĩa" được xem là hệ tư tưởng chủ đạo. Tư tưởng Nho gia được
khởi đầu từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc (kéo dài từ 722 - 221 TTL) với
các học thuyết của Bách gia chư tử và hoàn thiện trong khoảng 400 năm
thời kỳ nhà Hán. Từ khi Phật giáo Ấn Độ và Tây Vực được truyền tới Trung
Quốc vào cuối đời Hậu Hán, có thể nói đây là thời điểm tiếp xúc đầu
tiên của hai nền văn hóa Á Đông. Dân tộc Trung Quốc theo tinh thần hiện
thực của tư tưởng Nho gia tiếp nhận Phật giáo, và do vậy ngay từ đầu
Phật giáo ở Trung Quốc đã có những nét đổi thay so với cội nguồn Ấn Độ
mà biểu hiện rõ là sự hình thành và phát triển của các tông phái Phật
giáo.
II/ Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc
Khác
với Phật giáo Ấn Độ, quá trình hình thành và phát triển các tông phái
Phật giáo Trung Quốc luôn đi liền với công tác phiên dịch Thánh điển.
Theo quá trình phiên dịch, các tông phái Phật giáo Trung Quốc thường y
cứ và cổ xướng theo tư tưởng của kinh luận để lập tông. Tuy quá trình
phân phái và lập tông đã manh nha từ thời Đông Tấn nhưng hoàn chỉnh việc
lập tông thì rõ nét nhất là ở thời đại Nam -
Bắc triều. Theo nhận định của các nhà Phật học như Thích Thanh Kiểm
trong "Lịch sử Phật giáo Trung Quốc" và J. Takakusu trong "The
Essentials of the Buddhism Philosophy" (Các tông phái Phật giáo, bản
Việt dịch của Tuệ Sỹ), chúng ta có thể phác thảo sơ lược lịch sử hình
thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc như sau:
1. Tỳ Đàm tông (Câu Xá tông)
Tỳ
Đàm (nói đủ là A Tỳ Đàm) là tên gọi tắt của Trung Hoa về Abhidharma.
Trước khi luận Câu Xá (Abhidharma Kosa) được dịch sang Hán ngữ thì đã có
một học phái mệnh danh là Tỳ Đàm tông. Người đầu tiên nghiên cứu về A
Tỳ Đàm là Ngài An Thế Cao ở đời Hậu Hán. Các tác phẩm của A Tỳ Đàm được
dịch sang Hán ngữ rất sớm trong giai đoạn từ 383 đến 434 TL như "A Tỳ
Đàm Cửu Thập Bát Kết Kinh" của Ngài An Thế Cao, "A Tỳ Đàm Tâm Luận", "A
Tỳ Đàm Bát Kiền Độ Luận"... của Ngài Tăng Già Đề Bà đời Tiền Tần. Các
học giả thuộc Tỳ Đàm tông nổi bật có thể kể đến là các Ngài Huệ Tập,
Tăng Mân, Pháp Vân, Tăng Tung... Tuy nhiên, khi Luận Câu Xá của Ngài Thế
Thân được Ngài Chân Đế (Paramartha) dịch sang Hán ngữ từ năm 563-567
TL, sau đó là Ngài Huyền Trang dịch từ 651-654 TL và được truyền bá rộng
rãi thì Tỳ Đàm tông được thay thế bằng Câu Xá tông.
2. Thành Thật tông
Tông
này được lập và cổ xướng từ thời Ngài La Thập theo tư tưởng của Luận
Thành Thật (Satyasiddhi), một bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật giáo. Bộ luận
này do Ngài Ha Lê Bạt Ma (Harivarman) viết và được Ngài Cưu Ma La Thập
(Kumàrajìva) chuyển sang Hán ngữ thật sớm, vào 411-412 TL. Kể từ thời
Ngài La Thập về sau, không khí nghiên cứu học thuật của Thành Thật tông
được phát triển nhanh chóng. Trong khoảng từ 411 đến 498 TL đã có hơn 12
bộ sớ giải của các môn đồ Ngài La Thập viết về Luận Thành Thật và đã
có: "Hàng trăm buổi giảng thuyết về bản văn này được truyền bá khắp
Trung Hoa" (2). Đến đời Lương (502-507) thì Thành Thật tông phát triển
cực thịnh và được phổ biến rộng rãi với công lao của ba ngài Pháp Vân,
Trí Tạng và Tăng Mẫn. Trong giai đoạn này, Thành Thật tông được xem là
khuynh hướng Đại thừa. Thế nhưng, vào đời Tùy, kể từ khi Ngài Gia Tường
Đại Sư Cát Tạng nhận định Thành Thật luận là bộ luận thuộc Tiểu thừa
Phật giáo thì Thành Thật tông bắt đầu kém phát triển. Đến đời Đường,
Ngài Đạo Tuyên tuyên bố luận Thành Thật thuộc kinh Lượng bộ, một tông
phái Ấn Độ được xem là tiểu thừa, thì Thành Thật tông bước vào thời kỳ
suy vi và không còn phát triển ở các thời kỳ sau đó.
3. Nhiếp luận tông (Pháp tướng tông)
Nhiếp
luận tông (Samparigraha) là tiền thân của Pháp tướng tông
(Dharmalaksana). Nhiếp luận tông được thành lập từ khi Ngài Chân Đế
(499-569) dịch và giảng về bộ Nhiếp Đại Thừa luận (Mahàyànasamparihraha)
Nhiếp Đại Thừa Luận do Ngài Vô Trước viết vào thế kỷ V (được Ngài Thế
Thân chú giải) là bộ luận đầu tiên phát biểu học thuyết Duy thức. Ngài
Phật Thủ (Buddhasanta) dịch bộ luận này sang Hán văn lần đầu vào năm 531
TL, nhưng kể từ khi bản dịch của ngài Chân Đế vào năm 563 hoàn thành và
do nỗ lực truyền bá của Ngài thì Nhiếp Luận tông mới chính thức phát
triển tại phía Nam Trung Quốc. Sau khi Ngài Chân Đế viên tịch, do công
lao của ngài Đàm Thiên nên tông phái này cũng dần dần phát triển ở phía
Bắc Trung Quốc. Đến đời Đường, Ngài Huyền Trang đã dịch lại hai bản
"Nhiếp Đại thừa luận" và "Nhiếp Đại thừa luận thích", đồng thời theo học
thuyết "Thành Duy Thức luận" của Ngài Hộ Pháp mà thành lập và truyền
giảng tư tưởng Duy Thức. Đệ tử Ngài Huyền Trang là Ngài Khuy Cơ là người
có công hệ thống hóa và chính thức thành lập nên Pháp tướng tông. Hai
sáng tác quan trọng của Ngài: "đại thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương" và
"Thành Duy Thức luận thuật ký" là căn bản của tông phái này. Nhiếp luận
tông kể từ đời Đường đã được hòa nhập vào Pháp tướng tông.
4. Tam Luận tông
Tam
luận là ba bộ Trung luận, Bách luận và Thập nhị môn luận. Lịch sử của
tam luận bắt đầu ở Trung Quốc với sự xuất hiện của Ngài Cưu Ma La Thập.
Ngài là người có công phiên dịch cả ba bộ luận trên sang Hán ngữ. Quá
trình truyền thừa của Tam luận tông bắt đầu từ thời Ngài Cưu Ma La Thập
và được phân thành hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giai
đoạn này được sử Phật giáo Trung Quốc gọi là "Cổ Tam luận tông" gồm các
Ngài Cưu Ma La Thập, Đạo Sinh, Đàm Tế, Đạo Lãng (Tăng Lãng), Tăng
Thuyên, Pháp Lãng. Trong đó, Ngài Tăng Lãng là người có công tách hẳn
Tam luận tông khỏi ảnh hưởng của Thành Thật tông, và Tam luận tông kể từ
Ngài Tăng Lãng đã có một nền móng thật sự.
Giai đoạn
2: là giai đoạn truyền thừa của Ngài Cát Tạng. Ngài ngụ ở chùa Gia
Tường nên thường được gọi Gia Tường Đại A Cát Tạng. Ngài đã trước tác và
biên soạn nhiều khá nhiều tác phẩm. Trong đó có 3 tác phẩm Tam Luận sớ,
Tam Luận Huyền Nghĩa và Đại thừa Huyền Luận đã đem lại một cái nhìn mới
cho tông Tam luận. Do vậy, Tam Luận tông trong thời kỳ của Ngài Cát
Tạng được gọi là "Tân Tam Luận tông".
Cả hai giai
đoạn trên kéo dài trong hai thế kỷ thứ V và VI TL. Tuy nhiên, khi Pháp
Tướng tông hưng khởi do công của các Ngài Huyền Trang và Khuy Cơ thì Tam
Luận tông tại Trung Quốc đã không còn phát triển như trước mà được
truyền sang và quảng bá tại Nhật Bản do công Ngài Tuệ Quán (người Cao
Ly) và sau đó là Phúc Lượng (người Nhật Bản). Tam Luận tông bắt đầu có
mặt tại Phật giáo Nhật Bản từ thế kỷ thứ XII.
5. Hoa Nghiêm tông
Khai
tổ chính thức của Hoa Nghiêm tông là ngài Đỗ Thuận (551-640). Pháp danh
của Ngài là Pháp Thuận nhưng vì Ngài họ Đỗ nên thường được gọi là Đỗ
Thuận. Tuy nhiên, trước khi Hoa Nghiêm tông chính thức được thành lập ở
đời Đường thì tại Trung Quốc đã có hai học phái là Niết Bàn tông và Địa
Luận tông.
Niết Bàn tông là học phái y cứ trên nội
dung của kinh Niết Bàn. Địa Luận tông là học phái chuyên nghiên cứu và
truyền giảng trên tinh thần và nội dung của tác phẩm "Thập Địa Kinh
Luận", bản luận giải của Ngài Thế Thân về kinh Thập Địa (Dasabhumi
sutra) vốn là một bộ phận của Kinh Hoa Nghiêm. Về sau do có nhận thức,
giải thích khác nhau về các chủ đề tư tưởng trong hai bộ kinh luận trên
nên cả Niết Bàn tông và Địa Luận tông đều được phân thành hai dòng phía
Bắc và phíaNam.
Các nhóm học giả của "Bắc phái Niết Bàn" cũng như "Nam phái Thập địa"
về sau đều hòa nhập vào tông Hoa Nghiêm. Các bậc cao Tăng trong phổ hệ
truyền thừa của Hoa Nghiêm tông của Phật giáo Trung Quốc tiếp theo Ngài
Đỗ Thuận là các Ngài Trí Nghiễm (602-668), Nghĩa Tương (625-702), Pháp
Tạng (643-712), Trừng Quán (738-839), Tôn Mật (780- 841). Trong các vị
trên, Pháp Tạng là người có công rất lớn trong việc hệ thống hóa toàn
vẹn nền triết học Hoa Nghiêm. Có thể nói Hoa Nghiêm tông trở thành một
tông phái đích thực là do công lao của Ngài.
6. Thiên Thai tông (Pháp Hoa tông)
Thiên
Thai là tên một hòn núi ở tỉnh Thai Châu miền Nam Trung Quốc. Suốt
trong hai thời đại Trần và Tùy, Ngài Trí Khải (531-597) trú ở núi này và
xiển dương kinh Pháp Hoa. Tông phái do Ngài thành lập do vậy có tên
Thiên Thai tông hoặc Pháp Hoa tông. Trước Ngài Trí Khải, kinh Pháp Hoa
vốn đã là bộ kinh được nghiên cứu rất kỹ ngay sau khi Ngài La Thập phiên
dịch xong bộ kinh này, gồm 7 quyển - 27 phẩm, vào năm 406 TL. Về sau,
Ngài Pháp Hiển từ Ấn trở về đã phiên dịch và bổ sung thêm phẩm Đề Bà Đạt
Đa vào nên mới có 28 phẩm. Trong giai đoạn đầu, quá trình hình thành
giáo nghĩa của Pháp Hoa tông có liên hệ tới việc nghiên cứu của Ngài Huệ
Văn (505-577) về tư tưởng: "Không - Giả - Trung trong Đại Trí Độ luận.
Ngài đã dựa theo đó mà lập tư tưởng: "Nhất tâm tam quán" (3). Phương
pháp quán niệm này được truyền bá mạnh do công của đồ đệ Ngài là Ngài
Huệ Tư (514-577). Đồng thời Huệ Tư còn đề ra pháp tu Thiền quán theo tư
tưởng "chỉ quán nhất như", tức chủ trương việc kiêm tu định và huệ. Tuy
nhiên, chỉ khi truyền đến Ngài Trí Khải thì giáo nghĩa Thiên Thai tông
mới chính thức được kiện toàn. Kể từ đấy tông này mới được gọi là Thiên
Thai tông. Từ pháp tu quán "Nhất tâm tam quán", Ngài Trí Khải đề ra một
pháp tu quán mới là "Nhất niệm tam thiên" (4). Sự nghiệp trước tác, chú
sở của Ngài Trí Khải là một công trình đồ sộ, nhưng nổi bật là ba bộ
sách Pháp Hoa Văn Cú, Pháp Hoa Huyền Nghĩa và Ma Ha Chỉ Quán; giải thích
rõ ràng về yếu nghĩa kinh Pháp Hoa. Về sau ba bộ này được Ngài Quán
Đảnh (561-632), đệ tử truyền thừa của Ngài Trí Khải soạn tập và thường
được gọi là "Pháp Hoa Tam Đại Bộ". Sau khi Ngài Quán Đảnh viên tịch, do
sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các tông phái khác như Pháp Tướng, Hoa Nghiêm,
Thiền và Chân Ngôn nên Thiên Thai tông đã suy yếu dần. Đến thế kỷ thứ
VIII, Thiên Thai tông được phục hưng do công của Ngài Trạm Nhiên
(717-782) và sau đó được Ngài Đạo Toại, đồ đệ của Ngài Trạm Nhiên dạy
cho Ngài Tối Trừng (người Nhật). Thiên Thai tông chính thức được truyền
sang Nhật Bản kể từ Ngài Tối Trừng.
7. Mật tông (Chân Ngôn tông)
Chân
Ngôn dịch nghĩa Phạn ngữ "Mantra", nghĩa là "Bí mật giáo", giáo pháp
không thể phát hiểu bằng những ngôn ngữ thông thường. Chân Ngôn tông hay
Mật tông phát xuất từ Ấn Độ và được truyền tới Trung Quốc khá muộn. Vào
thời Đông Tấn, tuy đã có một vài bản kinh tiếng Phạn được các vị Tăng
Ấn Độ như Ngài Cát Hữu (Srimitra), Ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La dịch sang
Hán ngữ như Đại Quán Đảnh kinh, Khổng Tước Vương Kinh... và rải rác các
bài thần chú trong các kinh điển, nhưng đó không phải là thuần túy Mật
giáo. Phải đến đời Đường (618-907) thì Mật tông mới chính thức du nhập
vào Phật giáo Trung Quốc, khởi đầu với sự hiện diện của ba đại học giả
Ấn Độ là Ngài Thiện Vô Úy (Subhakarasimha, 637-735), Ngài Kim Cương Trí
(Vajrabodhi, 671-741), Ngài Bất Không (Anoghavajra, 705-774). Bộ kinh
căn bản của Mật tông là bộ Đại Nhật kinh được Ngài Thiện Vô úy dịch sang
Hán ngữ với sự trợ giúp của đệ tử là Ngài Nhất Hành (cũng là đệ tử của
Ngài Kim Cương Trí, 638-727).
Sự truyền thừa của Mật
tông tại Trung Quốc tương đối giản đơn hơn các tông phái khác. Tuy vậy,
tông này lại rất được các triều vua Đường: Huyền Tông, Túc Tôn, và Đại
Tôn ủng hộ. Đặc biệt là Ngài Bất Không đều được ba đời vua trên trọng
đãi. Các công trình phiên dịch kinh điển Mật tông được tiến hành với qui
mô đồ sộ. Theo sử Phật giáo Trung Quốc, Ngài Bất Không cùng với các
ngài La Thập, Chân Đế và Huyền Trang được gọi là "bốn nhà đại phiên
dịch" của Phật giáo Trung quốc. Không những trong Phật giáo mà Mật tông
còn ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong nền văn hóa Trung Quốc như điêu
khắc, kiến trúc, hội họa... Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của nạn Võ Tôn
phế Phật vào cuối đời Đường (5) nên Mật tông của Phật giáo Trung Quốc bị
suy yếu trầm trọng nhưng lại được truyền sang Nhật Bản do thầy trò hai
ngài Huệ Quả (người Trung Quốc, đệ tử Ngài Bất Không) và Không Hải
(người Nhật Bản theo học với Ngài Huệ Quả). Ngài Không Hải là người sáng
lập ra "Chân Ngôn tông" của Phật giáo Nhật Bản.
8. Thiền tông
Trong
các tông phái Phật giáo Trung Quốc, Thiền tông là tông phái có tầm ảnh
hưởng quan trọng nhất đối với toàn bộ hệ thống tư tưởng Phật giáo Trung
Quốc từ đời Đường trở về sau. Đây là nhận định chung của hầu hết các nhà
nghiên cứu Phật học hiện nay. Nếu xét từ cội nguồn thì hai phái chính
trong hệ thống Thiền tông là Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền. Như Lai Thiền
được xem là phương pháp tu Thiền có cội nguồn từ Phật giáo Ấn Độ, trong
khi Tổ Sư Thiền lại có khuynh hướng được xem là sáng tạo riêng của Phật
giáo Trung Quốc và khởi nguyên với sự hiện diện của Ngài Bồ Đề Đạt Ma.
HT Thích Thanh Kiểm viết: "Ở Trung Quốc, đời Hậu Hán, Ngài An Thế Cao đã
thông đạt Thiền kinh và đã thực hành về Tiểu thừa Thiền. Nhưng tới khi
Ngài La Thập dịch kinh "Tọa Thiền tam muội" và sau đó Ngài Phật Đà Bạt
Đà La (Giác Hiền) dịch "Đạt Ma Đa La Thiền kinh" thì thời đại cơ vận Đại
thừa Thiền được nhanh chóng lưu hành. Trong tình thế ấy, lại xuất hiện
một hệ thống Thiền của Tổ Bồ Đề Đạt ma và trở thành nền tảng cho Thiền
tông các đời sau" (6).
Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) là
thái tử thứ 3, con vua Kancipura xứ Nam Ấn. Theo lời dạy của thầy là
Ngài Bát Nhã Đa La (Prajnàtara), Ngài sang Trung Quốc vào đời Lương,
khoảng năm 470-520 TL (7). Theo phổ hệ truyền thừa của Thiền tông Ấn Độ,
từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến đời Ngài là thứ 28, nhưng Ngài được xem
là người khai sáng của phổ hệ truyền thừa Thiền tông Trung Quốc gồm:
1/Bồ Đề Đạt Ma. 2/Huệ Khả (? - 593) 3/ Tăng Xán (? - 606) 4/ Đạo Tín
(580 - 651) 5/ Hoằng Nhẫn (602-675). Bắt đầu từ Ngài Hoằng Nhẫn, Thiền
tông Trung Quốc đã bắt đầu phát triển cực mạnh với sự truyền giảng của
hai ngài Thần Tú (605-706) và Huệ Năng (được xem là Tổ thứ 6 của Thiền
tông Trung Quốc, 638-713). Ngài Thần Tú truyền giáo ở phương Bắc nên
dòng Thiền này gọi là dòng Thiền Bắc tông. Tương tự dòng Thiền của Huệ
Năng được gọi là dòng Thiền Nam tông.
Thiền Bắc tông chủ trương giáo pháp tiệm ngộ (sự bừng sáng của trí tuệ
giải thoát có được theo quá trình tu tập thứ lớp) nên được gọi là "Bắc
tiệm". Trong khi đó, Thiền Nam tông lại có mục tiêu đốn ngộ (giác ngộ ngay, không theo thứ lớp) nên được gọi là "Nam đốn".
Trong các thời đại sau đó, Thiền phái của Ngài Huệ Năng phát triển rất
mạnh và phân thành 5 tôn là Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và
Pháp Nhãn. Lâm Tế tôn sau lại chia thành hai phái là Hoàng Long và Dương
Kỳ. Năm tôn trên, thêm vào hai phái sau thường được sử viết là "Ngũ gia
thất tôn".
Vào các thời đại Nguyên, Minh, Thanh,
trong khi một số tôn phái khác bị suy thoái dần do sự du nhập và phát
triển mạnh mẽ của Lạt ma giáo Tây Tạng thì Thiền tông lại trở thành tông
phái phổ biến nhất. Từ Trung Hoa Dân Quốc đến nay, Thiền tông vẫn là
một tông phái chủ đạo của Phật giáo Trung Quốc.
9. Tịnh Độ tông
Tịnh
Độ tông là tông phái cùng với Thiền và Mật tông có ảnh hưởng trong Phật
giáo Trung Quốc hiện nay. Tịnh Độ tông là tông phái chủ trương pháp môn
"Vãng sanh Tịnh Độ". Pháp môn tu Tịnh Độ ở Trung Quốc khởi thủy từ khi
Ngài Tuệ Viễn lập ra hội "Bạch Liên xã" ở Lư Sơn vào đời Đông Tấn, chủ
trương quán tưởng niệm Phật, tức quán niệm tướng tốt của Đức Phật A Di
Đà. Đến thời Nam - Bắc triều, Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch bộ "Vãng sanh Tịnh
Độ luận" do Ngài Thế Thân trước tác và trở thành bộ luận căn bản cho
tông Tịnh Độ. Pháp tu Tịnh Độ của Ngài Bồ Đề Lưu Chi được Ngài Đàm Loan
kế thừa và truyền cho cao đệ là Ngài Thiện Đạo (613-681). Ngài Thiện Đạo
là vị có công hoàn thành giáo nghĩa của tông Tịnh Độ. Các tác phẩm của
Ngài viết như "Quán Kinh Sớ", "Vãng Sinh Lễ Tán", "Ban Chu tán", "Quán
Niệm Phật Môn", "Pháp Sự tán" bao hàm giáo lý tinh yếu của Tịnh Độ tông,
giải thích kinh Quán Vô Lượng Thọ, bộ kinh trọng yếu của tông phái này.
Sau
Ngài Thiện Đạo còn có pháp môn niệm Phật của Ngài Từ Mẫn (Tuệ Nhật,
680-740) nhưng đã chịu ảnh hưởng của Thiền tông. Từ Ngài Từ Mẫn trở về
sau, giáo nghĩa Tịnh Độ có khuynh hướng "Thiền Tịnh song tu". Tịnh Độ
tông vẫn âm thầm phát triển theo khuynh hướng trên và được hưng khởi
mạnh mẽ vào thời nhà Minh do công của các Ngài Vân Thê Châu Hoằng
(1535-1615), Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655) và Đại sư Ấn Quang ở cuối đời
nhà Thanh tới thời Trung Hoa Dân Quốc.
10. Luật tông
Luật
tông là tông phái nương theo giới luật mà thành lập nên có những điểm
khác với tông phái khác. Giới luật là những qui giới phải tuân thủ của
giáo đoàn Phật giáo. Trước khi truyền vào Trung Quốc, mỗi bộ phái Ấn Độ
đều có giới luật của bộ phái mình. Thế nhưng, khi truyền đến Trung Quốc
chỉ có 4 bộ "Ma Ha Tăng Kỳ luật" do Ngài Pháp Hiển và Phật Đà Bật Đà La
dịch; "Thập Tụng luật" do hai Ngài Phất Nhã Đa la và Đàm Ma Lưu Chi
dịch; "Tứ phần luật" do Ngài Phật Đà Da Xá đời Diêu Tần dịch; "Ngũ Phần
luật" do Ngài Phật Đà Thập dịch là được lưu hành. Dưới thời đại Nam -
Bắc triều, việc nghiên cứu Thập Tụng Luật rất được thịnh hành ở phương
Nam; nhưng kể từ khi Ngài Huệ Quang ở Bắc Ngụy bắt đầu nghiên cứu và
truyền giảng Tứ Phần luật thì xu hướng theo Tứ Phần luật được hưng
thịnh. Trong suốt đời Tùy đầu đời Đường, qua sự nghiên cứu và giảng giải
của các Ngài Pháp Thông đời Bắc Ngụy, Ngài Đạo Phú, Ngài Tuệ Quang
(468-537), Đạo Vân, Đạo Huy, Trí Thủ (môn đệ của Ngài Đạo Vân), Hồng
Tuân (đệ tử Ngài Đạo Huy) thì Tứ Phần luật trở thành bản luật phổ biến
của Phật giáo Trung Quốc. Đến đời Đường, Tứ Phần luật tôn hoàn toàn được
thành lập và chia thành ba phái: Nam Sơ tôn của Ngài Đạo Tuyên, (môn đồ
Ngài Huyền Trang, 596-667), Tướng Bộ tôn của Ngài Pháp Lệ (569-635) và
Đông Tháp tôn của Ngài Hoài Tố (624-697). Tuy nhiên, chỉ có Nam Sơn tôn
của Ngài Đạo Tuyên còn được duy trì và phát triển cho tới ngày nay.
Kết luận
Quá
trình hình thành và phát triển của các tông phái Phật giáo Trung Quốc
luôn gắn liền với lịch sử văn hóa - tư tưởng Trung Quốc. Trong mỗi giai
đoạn lịch sử, ở từng thời đại và mỗi triều đại, sự phát triển của các
tông phái Phật giáo Trung Quốc như nước ở trong đại dương, đôi khi lặng
lẽ êm đềm nhưng cũng có lúc hưng khởi mãnh liệt. Sự hưng khởi của tông
phái này dường như là để bổ túc cho sự suy vi của một tông phái khác.
Điều này phản ánh trọn vẹn tinh thần Duyên khởi rất hiện thực của đạo
Phật. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng cần lưu ý là không bao giờ có
sự đối kháng đến trở thành mâu thuẫn trong quá trình phát triển các tông
phái của Phật giáo Trung Quốc nói riêng và Phật giáo nói chung. Bởi lẽ
toàn bộ quá trình ấy luôn nằm trong tinh thần xây dựng những tư tưởng
hướng nghiệm cho con người trong quá trình sống - tu tập - đạt đến giải
thoát. HT Thích Thanh Kiểm trong sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc đã
viết: "Giáo học của Phật giáo được cấu thành bởi ba môn học là "Giới
học", "Định học" và "Tuệ học". Phật giáo Trung Quốc vì nghiên cứu về Tuệ
học nên Tam Luận tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông được thành lập;
vì tu tập về "Định học" nên có Thiền tông ra đời; và nương theo "Giới
học" để tu trì nên có Luật tông xuất hiện (8). Đây có lẽ không phải là
một đặc tính riêng Phật giáo Trung Quốc mà còn là đặc điểm chung của
toàn bộ lịch sử phát triển Phật giáo từ Ấn Độ cho đến các quốc gia có
Phật giáo trên thế giới và cả ở Phật giáo Việt Nam chúng ta hiện nay.
Chú thích
(1) Kenneth W. Morgan, The Path of the Buddha, Chapter V: Buddhism in China and Korea (Zenryu Tsukamoto, translated by Leon Hurvitz). The Ronard Press Company. NewYork 1956, p 183-184.
(2)
J. Takakusu, The Essentials of the Buddhism Philosophy (Xem "Các tông
phái Phật giáo" bản dịch Tuệ Sỹ, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1973, tr.
147).
(3) Tam quán là "Không quán", "Trung quán" và
"Giả quán". Nhất tâm tam quán nghĩa là trong một tích tắc của ý niệm đều
có đầy đủ ba tính chất không, giả và trung.
(4) Nhất
niệm tam thiên: Theo Ngài Trí Khải, mỗi ý niệm mê vọng của con người
đều bao hàm toàn thể thế giới, nói hẹp là 10 giới (Tứ Thánh và lục
phàm), nói rộng là 3000 pháp, có nghĩa là toàn thể thế giới. Ba tính
Không, Giả, Trung trong mỗi ý tưởng đều có quan hệ mật thiết với nhau,
chúng thật ra chỉ là một. Ở đây, Ngài Trí Khải chủ yếu muốn nêu lên
phương pháp quán niệm trên để người tu tập có nhận thức đúng về bản chất
của tâm mình.
(5) Xem lại bài PHHT, Đại cương lịch sử Phật giáo Trung Quốc, phần 2b.
(6) Thích Thanh Kiểm, Giáo trình lịch sử Phật giáo Trung Quốc (Tài liệu giảng dạy của Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM) tr. 14 (bản ronéo).
(7)
Tài liệu của Thích Thanh Kiểm ghi "khoảng năm 470" (Giáo trình lịch sử
... Sđd, t. 14) trong khi J. Takakusu trong Essentials of Buddhism
Philosophy lại viết "đến Trung Hoa năm 520" (Xem "Các tông phái Phật
giáo", bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1973, tr.
304). Do vậy, chúng tôi ghi khoảng thời gian ước định để học viên tiện
việc tham khảo (tg).
(8) Thích Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Thành hội PG TP. HCM ấn hành, 1991. tr 157.
(*) Sđd: Sách đã dẫn.
(*) TL: Tây lịch . TTL: trước Tây lịch
Sách tham khảo
1. Kenneth W. Morgan, "The Path of the Buddha", Chapter V: Buddhism in China and Korea (Zenryu Tsukamoto, translated by Leon Hurvitz). The Ronard Press Company. NewYork 1956.
2.
J. takakusu, The Essentials of the Buddhism Philosophy (Các tông phái
Phật giáo; bản Việt dịch của Tuệ Sỹ, Tu thư Đại học Vạn Hạnh ấn hành
1991).