Ngược
trở lại những năm tháng xa xưa ta thấy con người hầu như có rất ít vấn
đề phải đối phó. Cho dù nếu không giải quyết được thì họ cũng không vì
vậy mà phải tự tử như thời hiện đại ! Người ta cứ hồn nhiên sống tranh
đấu. Thành hay bại dường như đã được an bài bởi một Ðấng Tối Cao nào đó.
Bởi vậy, dù phải đối mặt với một hoàn cảnh sinh tồn khắc nghiệt hơn
chúng ta nhiều, song thời kỳ đó, theo nhà triết học nổi tiếng J.
Rousseau, vẫn là thời kỳ mà con người sống bình yên và hạnh phúc nhất.
Thế
giới ngày nay khác hẳn. Trong sự phát triển vượt bậc của khoa học con
người ngày càng thấy rằng mình đang thực sự làm chủ thế giới trước vô số
những vấn đề phải đối phó, con người luôn tin tưởng ở chiếc chìa khoá
vạn năng. Thế chí Biện thông của mình sẽ hoá giải tất cả.
Bắt
đầu từ Ludwick feuerbach, một triết gia Tây Âu lừng danh của thế kỷ
XIX, đã tuyên bố: Chính con người đã tạo ra Thượng Ðế theo hình ảnh của
mình trái với lời dạy kinh điển của Thiên Chúa Giáo cho rằng: Thượng Ðế
đã tạo ra con người theo hình ảnh của Ngài. Thậm chí, cuối thế kỷ thứ
XIX đến đầu thế kỷ thứ XX một số triết gia hiện sinh nổi tiếng đã nói
thẳng cho con người rằng: Thượng đế không hề hiện hữu.
Những
chủ trương trên có đúng hay không? Tất cả vẫn còn nguyên đó chưa có câu
trả lời dứt khoát, trong khi đó, con người có vô số những vấn đề phải
giải quyết, không giải quyết không xong. Trong số những vấn đề ấy, tựu
trung có một vấn đề căn bản là vấn đề cứu cánh của con người.
Bởi
trong thời hiện đại, nếu con người không tìm được con đường hướng
thượng hay con đường giải thoát cho chính mình, sớm hay muộn con người
sẽ lâm vào tình trạng bế tắc. Nói cách khác, vấn đề con người phải có
lời giải đáp: Giải đáp đúng sẽ cho một cuộc sống suôn sẻ trong trường
hợp giải đáp sai chắc chắn sẽ là một thảm hoạ, nhất là trong thời đại
hạt nhân toàn cầu ngày nay.
Nếu
như thế kỷ XX đã ghi nhận sự phát triển rực rỡ của khoa học, thì đồng
thời cũng là thế kỷ mà nhân loại đã trải qua những cuộc xung đột đẫm máu
nhất trong lịch sử. Như vậy sự phát triển của văn minh và khoa học tại
sao không kéo theo nó sự phát triển của luân lý và đạo đức, đến độ một
nhà nhân chủng học người Pháp nổi tiếng là Yves coppens đã phải chua
chát đặt câu hỏi rằng: ?phải chăng về mặt đạo lý chúng ta vẫn đang trong
thời kỳ tiền sử của nhân loại"? Thực vậy, khi mà sự thịnh vượng đáng mơ
ước của những xã hội dân chủ phát triển chỉ là những ốc đảo giầu có
hiếm hoi giữa cái xa mạc mênh mông của sự nghèo khó toàn cầu.
Ngày
nay chiến tranh lạnh đã kết thúc, song con người hiện đại vẫn còn cảm
thấy vô cùng khó khăn trong sự chung sống hài hoà với đồng loại của
mình, và nhất là với môi trường sinh thái đã sinh ra chính mình. Chiến
tranh và huỷ hoại dường như vẫn là một giải pháp ưa dùng của nó. Chẳng
thế mà trong tác phẩm ?ánh sáng châu á? (The light of asia) Edwin arnold
đã viết: ?khắp mọi nơi đâu cũng vậy, đều chỉ là cảnh sinh vật này giết
hại sinh vật kia và đến lượt nó lại bị các sinh vật khác giết hại. Sự
sống luôn được nuôi dưỡng bằng cái chết. Cảnh đời đẹp đẽ chẳng qua chỉ
là tấm màn nguỵ trang những mưu ma chước quỷ nhằm tiêu diệt lẫn nhau, từ
con sâu cái kiến cho đến con người?. Và chúng ta đang tồn tại trong cái
thế giới mâu thuẫn, phức tạp, nhiễu loạn chẳng ngừng này !.
Nếu
như mỗi cá nhân chỉ vì dục vọng bản thân mà cạnh tranh tiêu diệt lẫn
nhau, thì các cộng đồng cũng chính vì dục vọng đã đẩy sự cạnh tranh
thành chiến tranh. Nào là chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh, chiến
tranh tôn giáo, chiến tranh sắc tộc, chiến tranh kinh tế, chiến tranh
môi trường vv.. thôi thì đủ các kiểu tai hoạ do con người gây ra với
những cái "Danh" rất là chính, và "Ngôn" xem ra cũng rất thuận, con
người một mặt gây ra những tai hoạ, một mặt lại kêu gọi hãy cùng nhau
đóng góp để khắc phục tai hoạ.
Thực
tại mâu thuẫn trên cho thấy đã đến lúc phải quan tâm tìm kiếm một con
đường khả dĩ có thể giải thoát cho con người trong thời hiện đại. Lịch
sử phát triển tư tưởng của con người luôn gắn liền với sự quan tâm như
vậy trong từng thời kỳ của nó. Thời cổ đại con người quan tâm đến thế
giới tự nhiên (Geocentrism). Thời trung cổ con người quan tâm đến thần
thánh (Theocentrism), và thời hiện đại con người quan tâm tới chính mình
(Anthropocentrism).
Quả
thật con người là một thực thể được Thần học, Triết học quan tâm săn
sóc nhiều hơn cả. Từ con người linh hồn siêu việt bị cầm tù trong thể
xác ô trọc của Platon, đến con người phạm tội tổ tông Thiên Chúa giáo,
con người sợ hãi lo âu của Kirkegard, con người khổ đau của
Dostoievski, con người dục tính ức chế của Freud, con người hư vô của
Niesche, con người phi lý của J. sartre và con người nổi loạn của A.
camus... Hết thảy đã được đúc kết trong cái phương trình của Faulkner
?Con người chỉ là tổng số những bất hạnh mà nó đã kinh qua trong cuộc
đời!?.
Chúng
ta có thể đặt câu hỏi tại sao những nhà nhân bản chủ nghĩa trên con
đường tìm kiếm cứu cánh cho con người đã dừng lại ở những định nghĩa bế
tắc như vậy. Vấn đề nằm ngay trong hệ thống triết lý của họ. Triết học
nào luân lý ấy.
Con
người ngay từ khi hiện hữu từ trong vô thức sâu thẳm đã lờ mờ ý thức
được sự cô đơn của mình có nguồn gốc bi kịch của một Athé bị chia lìa
khỏi đất mẹ bản thể. Thế nên nó luôn mơ tới Một cõi đi về. Mặc dù nó
cũng chẳng biết sẽ đi về đâu. Platon dẫn nó về với thế giới ý niệm lý
tưởng. Jésu dẫn về Thiên đường nước chúa, nho giáo dẫn về Cõi thiên lý,
lão giáo đưa về Cõi đạo, HéGel dẫn tới ý niệm tuyệt đối và ấn giáo là
cõi Brama Ðại ngã.
Tựu
trung Con đường về mà triết học Cổ, Kim, Ðông, Tây tìm kiếm cho con
người đều xuất phát từ ý đồ nhân bản. Song nó bị các triết gia hiện đại
xem như là quá ư siêu việt, Nên không có mấy ý nghĩa trước hiện thực
nhân sinh. Bởi vậy họ khuyến cáo con người hãy từ bỏ cõi giới siêu
nhiên, từ bỏ thánh thần, để chỉ quan tâm tới con người và chỉ lo cho con
người. Ðây được xem là mục tiêu nhân bản của triết học hiện đại mà các
triết gia hiện sinh thường được xem là tiêu biểu.
Nói
tới triết học hiện đại là phải nói tới triết học hiện sinh
Existentialism của những đại diện như Jaspers. Marcel. Berdiaevp -
Heidergger, Sartre và A. camus. Ba người trên ảnh hưởng học thuyết hiện
sinh tôn giáo thần bí của Kirkergaard, nên lối thoát mà học tìm kiếm cho
con người chủ yếu vẫn là các cảnh giới Thiên Chúa giáo. Nên thường gọi
là hiện sinh hữu thần. Ba người sau ảnh hưởng bởi Hiện tượng luận
(Phénoménologie) của Husserl có khuynh hướng chống lại những quan niệm
về tôn giáo của phái hiện sinh hữu thần, nên gọi là hiện sinh vô thần.
Tuy nhiên, điều mà họ nhất trí là cùng quan tâm tới vấn đề thân phận con
người, là vấn đề cụ thể và sâu sát nhất với thực tế nhân sinh. Do đó
các triết gia hiện sinh thường xem họ là những người đi tiên phong trong
việc tìm kiếm cứu cánh cho con người hiện đại, nhất là những nhà hiện
sinh vô thần. Chẳng hạn A. camus từng nói "Vào lúc con người tự đặt ra
câu hỏi "Cuộc đời này có đáng sống hay không ?" thì đúng lúc bi kịch sẽ
xảy ra. Trả lời được câu hỏi này là giải quyết được vấn đề lớn của triết
học". Hoặc J. sartre từng khẳng định khi đặt đầu đề cho tác phẩm lý
luận quan trọng của ông là Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản
(L'existentialisme est un Humanisme). Vậy do đâu phương trình nhân bản
mà họ tìm kiếm cho con người chỉ dẫn đến những hư vô, phi lý, cùng bế
tắc cho một đề toán nan giải mới là Thân phận kiếp người.
Bởi
lẽ cái ẩn số của phương trình trên nằm ở phần bản thể đã bị các nhà
hiện sinh vô thần chặt đứt một cách không thương tiếc khỏi sự hiện hữu
của con người, thế nên con người hiện sinh là một con người chơi vơi
chẳng còn biết bấu víu vào đâu, chỉ còn biết la lên về sự hiện hữu phi
lý của mình !. Tiêu biểu cho quan điểm này là Sartre và Neidergger. Cả
hai đều cho rằng con người tình cờ mà sinh ra, và chỉ có một lần sống,
đời người là hữu hạn, đằng sau cái chết chỉ là hố thẳm của hư vô tuyệt
đối. Như vậy sự tồn tại của con người bề nào cũng chỉ dẫn đến một thất
bại chua chát đắng cay, và con người dù tài ba lỗi lạc đến mấy cuối cùng
vẫn chỉ là Kẻ thua cuộc.
Người
ta thường xem cuốn tiểu thuyết Ông già và Biển cả (The Old man and the
Sea) của nhà văn được giải Nobel Hemingway đã minh hoạ cho những quan
điểm triết học trên. Trong truyện, Hemingway đã mô tả ông già đánh cá
đơn độc San-di-ê-gô, bằng sự nỗ lực phi thường đã đánh bắt được một con
cá kiếm cực lớn. Song, trên đường vào bờ, nó đã bị lũ cá mập hung bạo ăn
thịt chỉ còn trơ lại bộ xương. ở đây tác giả đã mô tả bộ xương kỳ vĩ
của con cá như là biểu tượng cho sự thất bại của con người. Nên nó lớn
chừng nào thì thất bại của con người làm ra nó cũng lớn theo chừng ấy!.
Có cần phải nói thêm rằng, Hemingway - con người huyền thoại của biết
bao kỳ tích văn chương, cuối cùng cũng đã tìm tới cái chết bằng một phát
đạn súng săn oan nghiệt!.
Do
tách rời bản thể, con người hiện sinh chỉ còn là một thực tại bế tắc và
phi lý. Bởi vậy, rất khó đặt thành vấn đề đạo lý cho những hành động
của nó. Mặc dù các triết gia hiện sinh, nhất là J. sertre luôn hô hào về
sự dấn thân. Về sự nhập thế (engagement) của con người, rằng, con người
có tự do lựa chọn, nên con người phải có trách nhiệm với lịch sử, và
nhất là với thời đại của mình...
Chung
quy thì những lời lẽ trên chỉ là một thứ trang trí (Decoration) không
hơn không kém. Bởi nó chẳng tạo được mấy chút ảnh hưởng. Giá trị của các
triết gia hiện sinh nằm ở mặt khác. Bởi trên con đường tìm kiếm chân
lý, quả thật họ luôn ưu tư về nỗi khổ của con người. Với trực giác nhạy
bén, nhiều lúc tưởng như họ đã tiếp cận chân lý Phật giáo. Chẳng hạn như
Heidergger, khi luận về bản thể ông đã từng nói: "Trong tất cả các kỳ
quan nhân loại, Bản thể của Tính không là cái vĩ đại nhất", thật chẳng
khác gì một vị Bồ Tát. Cho nên, không lấy gì làm ngạc nhiên khi họ nhận
thức được sự tất yếu của đời người là khổ thì chính là họ đã minh họa Ðế
thứ nhất trong Tứ diệu đế nổi tiếng của Ðạo Phật từng khẳng định "Ðời
là bể khổ". Có thể nói chính trên cơ sở này, triết học hiện sinh đã có
một ảnh hưởng lớn lao tới đời sống văn học nghệ thuật hiện đại ở phương
Tây, và qua đó đã ảnh hưởng sâu sắc tới tâm trạng của một bộ phận lớn
giới trí thức đương thời. Bản thân hai đại diện tiêu biểu là J. sartre
và A. camus cũng được xem là thành công về mặt văn chương hơn là triết
học, và chúng ta đều biết cả hai người đều được giải Nôben về văn
chương. Nhà văn Ðức H. boll đã có lý khi ông nhận xét: "J. sartre là một
nhà văn tài ba, nhưng là một nhà luận lý xoàng xĩnh" (II est un
écrivain talenteur, mais un poètre logicsien).
Như
vậy, dù không thành công trong việc tìm kiếm cứu cánh cho con người về
mặt triết học, song các triết gia hiện sinh bằng thiện chí, và bằng trực
giác mẫn cảm, đã dẫn dắt những văn nghệ sĩ trí thức hàng đầu của thế kỷ
nắm bắt được những vấn đề bức xúc nhất của thời đại ngày nay. ấy là vấn
đề thân phận kiếp người. Qua họ chúng ta thấy cần phải tìm kiếm một sự
giải thoát toàn diện và triệt để cho con người. Và con người đó chính là
con đường mà Ðức Phật đã chỉ cho chúng sinh từ 2.500 năm về trước. Ðó
chính là con đường Nhân bản Phật giáo.
Ngay
từ xa xưa, khi Ðức Phật còn tại thế, Người vẫn thường khuyên các chúng
sinh trí thức chớ nên tìm hiểu những vấn đề siêu hình, huyễn hoặc, mà
chỉ nên chú trọng đến con người và lo cho con người. Vì con người có
Sinh, Lão, Bệnh, Tử, có Tham, Sân, Si nên con người khổ. Vậy thì phải
tìm cách giải thoát cho họ. Như vậy chúng ta thấy, Ðức Phật chính là Nhà
Nhân bản thiết thực nhất, theo ý nghĩa đó.
Nhân
bản Phật giáo (Buddhish Humanism) là một hệ thống nhận thức luận gồm
đủ: Bản thể, Hiện tượng, Nhân sinh, Luân lý, Con đường Giải thoát...
nhằm giúp cho con người tìm kiếm cứu cánh trong lộ trình của Bản thể.
Như thế, về căn bản cũng xuất phát từ những điểm tương tự như triết học
nhân bản phương Tây hiện đại, lấy mục đích giải thoát cho con người là
chính. Tuy nhiên, về phương pháp nó có những điểm khác biệt với triết
học nhân bản phương Tây hiện đại. Chẳng hạn với triết học hiện sinh vô
thần, hệ thống nhân bản của con người bị khép kín trong một cuộc sống
duy nhất, không có sự tương giao nhân quả giữa kiếp trước và kiếp sau,
và cũng không đặt vấn đề thông cảm với những người khác (tha nhân). Biểu
hiện qua câu nói tiêu biểu của J. sartre. "địa ngục chính là những kẻ
khác" (L'enfer c'est les autres). Như vậy con người hiện sinh xem những
người khác chỉ là những kẻ cạnh tranh sinh tồn với họ. Mặt khác tạo nên
sự tha hoá của số đông, làm mất đi bản chất đích thực của mỗi cá nhân,
cũng tức là làm mất tự do của con người.
Trong
khi ở Phật giáo là một hệ thống nhân bản cởi mở. Sự hiện hữu của con
người gắn liền với bản thể nên nó được triển khai với giáo lý Nghiệp Báo
(Karma) từ quá khứ, cùng với giáo lý luân hồi (Samsa) trong tương lai.
Mặt khác Phật giáo chủ trương vô ngã nên người Phật tử trong khi tu tập
để giác ngộ, luôn thể hiện tinh thần vị tha, nhiệt tình giúp đỡ những
người khác và hết lòng vì đồng loại của mình. Và nếu như hệ thống hiện
sinh hữu thần của Jasper và Marcel mở cho con người đi tới các cảnh giới
siêu hình của chúa thì Phật giáo đưa con người trở về với điểm đồng
nhất của Bản thể thường tịch. Trong khi Hegel mượn con đường lịch sử cho
con người tinh thần đi tìm chính điều nó đã mất, để mong đồng nhất với ý
niệm tuyệt đối, thì Phật giáo khai thông lộ trình cho con người Quán
Thức để chuyển Thức thành Tuệ (Wisdom), tức là thức đã được giác ngộ.
Ðó
có thể được coi như một tổng quan cho vấn đề Nhân bản luận Phật giáo
trên bối cảnh nhân bản triết học Ðông, Tây, Cận, Hiện đại, và là con
đường Nhân bản luận Phật giáo hiện đại.
Nền
tảng nhân bản ấy được xây dựng trên cơ sở của giáo lý Nghiệp báo, Luân
hồi và Vô ngã, được minh chứng bằng những luận cứ khoa học.
Hai
giáo lý quan trọng mà người học Phật phải biết rõ. Ðó là lý Nghiệp báo
và Luân hồi, hay những kiếp sinh tồn trở đi trở lại. Ðó cũng là hai giáo
lý cốt yếu của ấn Ðộ giáo, nhưng người theo ấn giáo thấm nhuần những ý
niệm về một linh hồn tự ngã, trái lại Phật giáo hoàn toàn phủ nhận.
Nghiệp
báo và Luân hồi là định luật mang tính nhân quả, là ánh sáng rọi bản
thể con người. Do đó, nó chính là nền móng đạo đức học của Phật giáo.
Tóm lại, hiểu một cách rốt ráo, Nghiệp báo là sự tác ý, hay ý muốn. Còn
Luân hồi theo Phật giáo thì sau khi chết hoặc trước khi sinh ra không có
đời sống nào nơi con người là không tuỳ thuộc vào Nghiệp, hay hành động
có tác ý. Nghiệp báo là hệ luận của Luân hồi, và ngược lại, Luân hồi là
hệ luận của Nghiệp báo. Hai giáo lý này bổ sung và gắn bó với nhau rất
mật thiết.
Như
vậy, luận cứ về hai giáo lý trên không phải từ Phật giáo ra đời mới có,
mà nó xuất phát từ ấn Ðộ giáo. Tuy nhiên, ở hai giáo lý này ta thấy
Phật giáo đã vượt qua hai vấn đề siêu hình và bản thể ở ấn giáo. Luận cứ
Nghiệp từ kinh Vệ Ðà qua đạo Phật đã biến đổi và mang một sắc thái khác
hẳn: Nghiệp Phật giáo hàm chứa tính chất tự do và tinh thần trách nhiệm
của cá nhân trên lộ trình đi đến bến bờ giác ngộ... ở đây, cần phải nói
là Nghiệp đã dạy cho con người tự mình xây dựng kiếp mai sau cho mình,
chứ không trông chờ ở Ðấng sáng tạo Brahma ban phát cho một ân huệ siêu
hình nào cả.
Như
vậy Phật giáo đã đặt vấn đề lý giải hành động con người trên cơ sở hợp
lý, và Thiện, ác cũng không do siêu hình bản thể nào áp đặt, mà do chính
con người quyết định. Ở đây ta thấy Nghiệp Phật giáo thể hiện tính công
lý và công bằng triệt để.
Vậy
nên tất cả những gì đang diễn ra trong hiện kiếp của một con người, chỉ
là sự triển khai toàn bộ những hành động của Nghiệp báo kiếp trước. Nó
chẳng khác gì số mệnh đã được lập trình ngoài ý muốn của con người hiện
sinh.
Ðạo
Phật chẳng những khẳng định sự áp đặt tiên thiên lên cuộc đời mỗi cá
nhân (biệt nghiệp) mà còn cho cả cộng đồng dân tộc (cộng nghiệp), thậm
chí cho cả thế giới này nữa. Ở điểm này ta thấy tính tất yếu Nghiệp báo
của Ðạo Phật cũng tương tự như quan điểm tất yếu lịch sử của triết học
Hégel, song, nó có điểm hợp lý hơn. Bởi trong quan điểm về tất yếu lịch
sử Hégel cho rằng mỗi một sự kiện lịch sử đã xảy ra ở một nơi nào đấy,
vào một thời điểm nào đấy, là tất yếu, chứ không ngẫu nhiên. Tuy nhiên,
ông xem tính tất yếu ở đây là mục đích của ý niệm Tuyệt đối, cũng tức là
Thượng đế. Như vậy nhân tố tất yếu Hégel thực chất là nhân tố siêu
hình. Với cách nhìn này, những nhân vật như Napoléon, Tần Thuỷ Hoàng,
Cézar, Thành Cát Tư Hãn v.v... chỉ là những người sinh ra để làm cái
việc mà lịch sử chờ đợi ở họ, nói cách khác, họ là những con rối lịch
sử, hoàn toàn thụ động, do đó không chịu trách nhiệm về những hành vi
của họ trước lịch sử.
Trong
khi Phật giáo khẳng định những gì đã xảy ra cho một cộng đồng là tất
yếu Nghiệp báo, có nguyên nhân sâu xa từ những hành động nhân danh cộng
đồng, được thực hiện bởi những người đứng đầu trong suốt tiến trình lịch
sử của nó. Như vậy Phật giáo quan niệm tất yếu lịch sử có nguyên nhân
chính là do hành động của con người. Nếu hết thảy những gì tốt đẹp hay
không tốt đẹp đang diễn ra trong đời sống cộng đồng, là không thể tách
rời vai trò lịch sử của những người lãnh đạo cộng đồng.
Nghiệp
báo, theo Ngài Long Thọ "là người chủ nợ đeo đuổi con nợ, quyết không
tha... không cho con nợ một nơi nào để trốn tránh", và một khi đã mang
lấy Nghiệp vào thân, dù trong cuộc đời ta có gặp phải những oan trái bất
hạnh lớn đến đâu chăng nữa, thì hãy xem đó là thời hạn đã đến của một
món nợ mà thản nhiên thanh toán với ý thức đầy đủ của một con nợ có
trách nhiệm, thậm chí nên xem như một ân xủng đã cho ta cơ may để trút
bỏ gánh nặng hữu lậu luân hồi, thay vì oán trách trời gần trời xa.
Mặc
dù nghiệp báo là một định luật rất nghiêm ngặt, nhưng cũng uyển chuyển
linh động vô cùng. Nhân nào quả ấy, nghiệp nào kiếp ấy chẳng hề đơn sai.
Tuy nhiên trong mỗi con người, bất kể ai ai, kể cả những con vật sơ
đẳng nhất, đều hiện hữu một Phật tính vốn có, dưới dạng rõ hơn, nó là
Thiện tính vô ngã, thường được thể hiện như là quyền tự do chọn (libre
arbitre). Tuỳ theo cách ta sử dụng quyền tự do lựa chọn ấy như thế nào.
Bởi vậy mới có Nhân định thắng thiên, hoặc tận nhân lực tri thiên mệnh,
chính là biểu hiện ý chí hướng thiện thành khẩn của con người, đồng
thời cũng chứng minh sự tự do của con người. Ðúng như quan niệm của
Dostoievski: "Con người không phải vật thao tác thụ động, mà là một cá
nhân có ý chí tự do, và chịu trách nhiệm đối với hành vi đã thực hiện".
Bởi
vậy Nghiệp trong thực tiễn cuộc sống hành sử chẳng khác gì Ðịnh Mệnh,
nhưng không theo tinh thần quyết định luận sắt thép, mà có thể bị uốn
dòng, đổi chiều, theo hướng tốt hơn, hoặc xấu hơn, tuỳ theo ta lựa chọn
cách ứng xử nào, đối trước một hoàn cảnh mà Nghiệp đặt ta vào.
Ðây
cũng chính là điểm khác nhau về mặt nhân bản giữa lý nghiệp báo và
thuyết định mệnh của các tôn giáo khác. Thuyết định mệnh chủ trương
những gì xảy ra cho một đời người đều do một Thượng đế siêu hình áp đặt.
Con người dù có nỗ lực đến mấy cũng không thể thay đổi được số mệnh của
mình. Cách đặt vấn đề này khiến cho con người hoàn toàn thụ động và trở
nên tiêu cực. Mặt khác, thử hỏi căn cứ vào đâu mà Thượng đế lại tạo ra
các số phận may, rủi cho con người, hoặc nói rộng ra cho các cộng đồng
dân tộc ? Vì sao kẻ này được người quá ư ưu đãi, nuông chiều, còn biết
bao kẻ khác thì lại bị Người trừng phạt một cách lạnh lùng, tàn nhẫn!
Ðến nỗi nhà văn Pháp G. maupassant đã phải chua chát thốt lên: "Nếu quả
thật Thượng đế hiện hữu và làm ra những nghịch cảnh trên, Thượng đế vĩnh
viễn là một kẻ sát nhân!" Còn Standhal ôn hoà và hóm hỉnh hơn "Chúng ta
tha thứ cho Thượng đế, vì Thượng đế không hiện hữu".
Song
song với lý Nghiệp báo là thuyết Luân hồi. Ðức Phật đã dạy: Hễ chúng
sinh nào chưa được giác ngộ, đều phải luân hồi mãi mãi trong bể khổ. Do
đó mỗi chúng ta đều đã trải qua hàng ngàn, hàng vạn cuộc đời. Thậm chí
có người kiếp trước còn là động vật như chim muông, trâu bò, gà lợn...
Nếu bạn chưa tin những điều này hãy nhớ lời Ðức Phật khi còn tại thế vẫn
thường nói với các đệ tử: "Ta là người nói thật, nói đúng chứ không nói
bừa".
Tuy
nhiên, không giống thuyết luân hồi của các tôn giáo khác, Phật giáo chủ
trương luân hồi trên cơ sở vô ngã (Anatta). Thông thường chúng ta
thường hiểu sự luân hồi nghĩa là có một "cái tôi" cố định biểu hiện qua
linh hồn bất tử luân hồi từ kiếp này qua kiếp khác. Ðó là một cái tôi
thường hằng, bất biến, một thực thể có một không hai, biết phân biệt nó
với thế giới khách thể. Ðức Phật cho rằng chính sự ngộ nhận về một cái
tôi như vậy đã khiến con người trở nên tham lam, ích kỷ, kiêu căng, độc
ác... Tóm lại nó là nguồn gốc gây ra những khổ đau cho đồng loại và cho
chính bản thân mình.
Bởi
vậy mục đích giáo lý của Ðức Phật là chỉ cho chúng sinh thấy được thực
chất bản thể của nó là vô ngã. Cần thấy rằng đây là điểm vô cùng siêu
việt của Nhận thức luận Phật giáo.
Theo
Phật giáo, mọi chúng ta đều có một cái tâm (Cita) thường trụ biến, bao
trùm vũ trụ, Tâm ấy đồng nhất với bản thể vũ trụ, vốn tính bất nhị,
không phân chia chủ thể, khách thể, hoặc của ta, của người. Ðức Phật gọi
là Tâm bát nhã hay Tâm chân như, là Phật tính, là cái ta không phải ta
(le moi non moi). Tóm lại nó là Bản thể Nhất Như với vô vàn diệu dụng.
Chính
tâm này đã tạo tác nên thế giới hiện tượng của chúng ta, với hiệu năng
đặc trưng vô ngã của nó. Bởi vậy hết thảy sự vật (gọi là vạn pháp) trong
thế giới này, đều không có thực tướng, thực ngã. Ðúng như thuật ngữ nổi
tiếng Vạn Pháp Duy Tâm Tạo. Nói cho đúng ra, các vật thể chỉ là sự tập
hợp bởi vô vàn những phần từ vô thường cực vi (lượng tử).
Quan
điểm này dường như đã được khoa học hiện đại thừa nhận qua sự nghiên
cứu về cấu trúc của các hạt cơ bản, những phần tử cuối cùng của vật
chất. Các nhà vật lý lượng tử cho biết rằng, chúng không phải là những
thực thể (object) ổn định mà luôn biến đổi. Ðúng hơn chúng chỉ là những
tiến trình (process) hợp tan, tan hợp...
Như
vậy tất thảy sự vật thế gian, bao gồm cả chúng sinh chúng ta, chỉ là sự
thể hiện của một cái tâm bản thể, tuỳ nhân duyên mà mang một hình tượng
tạm thời và luôn luôn biến đổi. Do đó, không thể có một "cái tôi" tự
ngã biểu hiện như một linh hồn bất tử, luân hồi từ kiếp này qua kiếp
khác làm nên một nhân cách thường hằng, vĩnh cửu. Thực thể người của
chúng ta, gồm cả hai phần tâm, sắc suy đến cùng chỉ là sự tập hợp của vô
vàn những lượng tử vô thường, luôn biến động và diễn tiến theo những
định luật nhân quả, tức là Nghiệp vậy. Trên hết của hai thành phần ấy,
đạo Phật thừa nhận cái tâm là thành phần linh diệu nhất, vi tế nhất, nó
thể hiện những đặc tính của tuyệt đối, vô biên thường tịch...
Trên
cơ sở ấy đạo Phật quan niệm hồn chỉ là sự biểu hiện của cái tâm vô ngã,
do duyên khởi với cõi đời phàm tục, nên nó rơi vào mê lầm, vọng chấp,
mà trở thành cái gọi là linh hồn (1). Với ý nghĩa đó nó chính là thần thức tạo nên Nghiệp báo cho các chủ thể luân hồi.
Ta
sẽ thấy khá rõ tính chất vô ngã của nó. Một khi con người chết đi, cơ
thể ngừng hoạt động, cũng là lúc thần thức trút bỏ toàn bộ những ký ức
thông tin về một kiếp người, xem như đã trả xong Nghiệp báo. Mặt khác do
tích luỹ những chủng tử nghiệp của kiếp sống vừa qua nên thần thức sẽ
lại tạo thành nghiệp báo cho một chủ thể mới, để tuỳ theo duyên nghiệp
mà có mặt ở một trong sáu ngả luân hồi.
Với
cơ chế này ta thấy rõ người kiếp sau không phải người kiếp trước. Nhưng
nếu không có người kiếp trước sẽ không có người kiếp sau tương ứng. Và
sự tương ứng này chỉ là sự nối tiếp chuyển hoá của cơ chế nhân quả, chứ
không phải hai con người được đồng nhất hoá bằng một linh hồn bất tử. ở
đây, cùng lắm chỉ nên xem linh hồn như một dòng điện liên tục thắp sáng
những bóng đèn, là các chủ thể luân hồi. Bởi vậy nó hoàn toàn vô ngã.
Do
tính chất vô ngã của nó, nên những ký ức thông tin về một đời người mà
thần thức trút bỏ lúc lâm chung, chỉ có nghĩa là một trường sinh học
mang thông tin về nhân cách của kiếp sống đã qua. Thay vì xem nó là linh
hồn của một con người cụ thể. Ðúng hơn phải gọi nó là những di cốt tâm
linh (Spiritual Remains), được lưu giữ đầy dẫy trong các vật thể và
trong không gian chung quanh chúng ta.
Ðể
hiểu rõ thêm vấn đề này, ta cần tham khảo quan điểm của giáo sư
J.R.buchanan - chủ nhiệm khoa điện sinh học vủa viện y học Covilton.
Theo ông, mọi vật thể đều bức xạ thông tin khi chịu tác động bởi xúc cảm
của con người. Bởi vậy lịch sử của cả thế giới này được lưu giữ trong
mọi vật thể và trong không gian quanh ta, mà con người - bằng sự phát
triển một công năng nào đó, hoàn toàn có thể tái dựng các sự kiện lớn
lao hay bi thảm trong quá khứ xa xưa của lịch sử con người.
Bởi
vậy không có gì là mâu thuẫn, khi các nhà ngoại cảm bằng năng lực đặc
biệt có thể khai thác những thông tin đó ở dạng gọi hồn, mà chúng ta vẫn
thường nghe kể, hoặc trực tiếp chứng kiến với những chi tiết chính xác
đến sởn ốc. Trong khi chủ thể của những thông tin đó đã mang nghiệp báo
mới để đầu thai làm kiếp khác từ lâu.
Như
vậy mâu thuẫn của hai hiện tượng tái sinh và Gọi hồn mà không ít người
trong chúng ta đã từng thắc mắc, thực chất ở đây nó đã được hoá giải bởi
sự nhất thể hoá trên cơ sở vô ngã của linh hồn.
Ðây
chính là điểm cực kỳ tinh tế của giáo lý đạo Phật. Chính sự tinh tế này
đã hoá giải triệt để cái tinh thần nhị nguyên đối đãi, vốn đã ngự trị
đầu óc con người từ ngàn xưa, khiến họ chỉ tin vào sự tồn tại của cái
"tôi" chủ thể và thế giới khách thể, và sự mê lầm này chính là nguyên
nhân trói buộc con người vào cái vòng quay miên viễn của sinh tử luân
hồi.
Chỉ
ra được bản chất vô ngã của sự vật và con người là một trong những điểm
vĩ đại nhất của đạo Phật. Vì con người chỉ có thể được giải thoát trên
cơ sở đó. Bởi nếu con người là một thực ngã, nó sẽ vĩnh viễn bị giam hãm
trong sự đơn độc (monolithic) giống như một nguyên tử bất biến của
Démmocrite. Không có cách nào để thể nhập với cái "Không" bản thể, vốn
là đất mẹ, mà nó đã để mất trong suốt quá trình làm người, hay đúng hơn,
trong suốt quá trình Mê, Lầm, Vọng, Chấp của một cái "tôi" giả hiệu qua
vô lượng kiếp luân hồi.
Ðức
Phật là người giác ngộ chân lý đó đầu tiên của nhân loại, đã chỉ cho
con người sự ngộ nhận đó và trả lại cái bản chất vô ngã cũng có nghĩa là
Phật tính vốn có ở mọi người. Vì vậy Ðức Phật đã khẳng định: mọi chúng
sinh đều có thể thành Phật.
Con
người chúng ta từ khi sinh ra đến lúc già nua là cả một cuộc đấu tranh
dữ dằn với cuộc sống. Ðắm chìm trong dục vọng, trong khổ đau, trong hạnh
phúc. Tất cả những cái đó đã làm mờ đi Phật tính vốn có trong ta. Chính
vì những lẽ đó đã mãi mãi đẩy ta biệt lập với những người khác, biệt
lập với bản chất vô ngã của chính mình, biệt lập với cái "không" bản thể
của vũ trụ. Biệt lập với thế giới chung quanh cho đến chết.
Muốn
giải thoát, con người đương nhiên phải tu tập, phải phá bỏ triệt để cái
lô cốt kiên cố mà cái "tôi" nhị nguyên đã cố thủ trong đó để làm biểu
lộ trở lại Phật tính vốn có của nó. Như vậy sẽ vượt qua định luật Nhân
quả, vượt qua sáu ngả luân hồi, để nhất thể hoá với cái "không" bản thể,
và đạt tới trạng thái hoàn toàn tự tại, hoàn toàn giải thoát.
Như
vậy mục đích con đường giải thoát mà đức Phật chỉ cho chúng sinh là
Xuất thế (Detachement). Trong đó bản thân con người cần hết sức nỗ lực
bạt nghiệp - để tự mình chuyển khỏi dạng thức tồn tại của thế gian này,
để tới những cõi giới cao hơn và cuối cùng là Niết Bàn, cõi giới không
còn sự sinh diệt.
Tuy
nhiên không phải vì mục đích xuất thế mà xem Nhân bản Phật giáo tách
rời con người ra khỏi đời sống như nhiều người đã lầm tưởng. Trước sau
Phật giáo vẫn chủ trương Phật pháp bất ly thế gian pháp. Người Phật tử
trong khi tu dưỡng để đi tới Niết Bàn vẫn có thể hành đạo, vẫn có thể
cứu nhân độ thế giữa đời thường, nghĩa là luôn gắn sự tu dưỡng để giác
ngộ bản thân mình, đồng thời giác ngộ những người khác, trong tinh thần
Bất ly thế gian giác. Như vậy, ở một phương diện nào đó, con người Phật
giáo là con người tại thế, như con người của triết học phương Tây hiện
đại... Chẳng những tại thế mà nó còn vươn lên (overcome) từ trong cõi
sống.
Hơn
nữa, mục đích tu tập xả bỏ "cái tôi" để con người hoà nhập với thế giới
nhất nguyên, sẽ luôn là nền tảng của đạo lý Phật giáo rất cần thiết cho
con người thời hiện đại. ấy là đạo lý vị tha (Altruism). Người hành xử
theo đạo lý này luôn khắc kỷ với bản thân mình, trong khi anh ta luôn
hết lòng vì những người khác, bởi xem thiên hạ với mình Vốn nhất như,
Vốn là một.
Trong
một thế giới mà người ta luôn nói tới sự chấn thương của địa cầu, luôn
nói tới sự phân hoá giầu, nghèo, giữa các quốc gia Nam, bắc, gây ra bởi
sự ích kỷ của con người. Thiết tưởng đạo lý nhân bản phật giáo nói trên,
chính là cứu cánh cho con người trong Thời hiện đại.
Sau
hết sự siêu việt của Nhân bản luận Phật giáo đã khai ngộ cho chúng ta
biết được cái lai lịch của con người mình qua những câu hỏi:
Chúng ta là ai?
Chúng ta từ đâu tới?
Chúng ta sẽ đi về đâu?
Những
câu hỏi nan giải mang tính triết học nói trên thường xuyên ám ảnh tâm
trí con người. Thực chất đã được giải đáp qua con đường giải thoát mà
Ðức Phật đã chỉ cho chúng sinh.
Với
ý nghĩa đó, Nhân bản luận Phật giáo đã đưa con người ra khỏi cái thân
phận bi kịch của một sinh vật vô minh, và trả lại cho nó cái dáng vẻ đẹp
đẽ, thanh cao của con người Minh triết.
Chú thích: (1) Theo chúng tôi gọi là linh hồn hay thần thức đều được, chỉ cần hiểu nó không phải là một thực ngã.
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu Phật Học