“Con
người là một sinh vật duy nhất biết mình phải chết”. Lời của một triết
gia phản ánh nỗi ám ảnh, day dứt của con người về sự sống và cái chết,
cũng là những ám ảnh, day dứt về thời gian. Thời gian trôi qua vô hình
nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong các biến cố lịch sử, trong các thành
quả của nhân loại. Câu hỏi về thời gian vẫn hấp dẫn con người qua mọi
thời đại. Bởi thế, các nhà triết học, vật lý học thường dành một vị trí
nhất định cho vấn đề thời gian trong các công trình nghiên cứu của mình.
Cách đây gần 2.600 năm, Phật giáo đã có một cái nhìn khá sâu sắc, độc
đáo về thời gian, trong đó có nhiều điểm tương đồng kỳ lạ với quan niệm
về thời gian của vật lý học hiện đại. Với tinh thần “cầu đồng tôn dị”,
việc tìm hiểu quan niệm về thời gian trong Phật giáo và vật lý học hiện
đại là để hiểu thêm về những tương đồng, dị biệt trong hai nền văn hoá
Đông - Tây nhằm xây dựng một nền văn hoá nhân văn, khai phóng và dung
thông trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay.(*)
1. Quan niệm về thời gian trong Phật giáo
Từ
gần 2000 năm TCN, người ấn Độ đã dành một phần tâm trí của mình cho vấn
đề thời gian. Trong kinh Veda - bộ kinh cổ nhất của ấn Độ và nhân loại,
thời gian là vị thần Rudra huỷ diệt sự sống, bên cạnh thần Phạm Thiên
sáng tạo sự sống, thần Visnu bảo vệ sự sống. Bởi thế, ám ảnh về thời
gian và khát vọng vượt thoát sự ám ảnh ấy, cũng có nghĩa là khát vọng
vượt thoát cái chết, kiếp luân hồi, nỗi khổ đau nhân thế luôn thường
trực trong tâm hồn người ấn. Tuy nhiên, cái nhìn về thời gian của họ
không giống với cái nhìn về thời gian của người phương Tây. Người ấn
không đo sự vận động của sự vật trong dòng chảy của thời gian từ quá khứ
đến tương lai bằng niên đại chính xác. Trong sử sách ấn Độ, thời gian
của các biến cố thường chỉ được tính áng chừng. Vượt lên những biến dịch
không cùng của đời sống, người ấn truy tìm một bản thể vĩnh hằng, tĩnh
lặng miên viễn, không biên kiến, thị phi... Tư tưởng đó thể hiện đậm nét
trong quan niệm của Phật giáo về thời gian.
Vấn
đề thời gian trong Phật giáo được xem xét một cách khá toàn diện với
nội hàm phong phú, sâu sắc: thời gian qua từng satna và từng kiếp; thời
gian ở khía cạnh khách quan và khía cạnh chủ quan, thời gian trên phương
diện tục đế (samaritil) và phương diện chân đế (paramatha) ...
a/ Kiếp và satna
Phật
giáo thường dùng hai thuật ngữ làm phương tiện đo thời gian: kiếp là
đơn vị đo thời gian cực đại; satna là đơn vị đo thời gian cực tiểu. Kiếp
(kalpa) - đơn vị đo thời gian dài, được Phật giáo nguyên thuỷ chia
thành tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp. Mỗi tiểu kiếp bằng 16.800.000
năm. Mỗi trung kiếp bằng 20 tiểu kiếp nghĩa là bằng 336.000.000 năm. Một
đại kiếp bằng 4 trung kiếp (thành kiếp, trụ kiếp, hoại kiếp, không
kiếp), nghĩa là bằng 1.344.000.000 năm. Sự lâu dài của một kiếp được ví
như thời gian tảng đá vuông rộng 40 dặm mòn hết khi bị chiếc áo tiên đều
đặn 100 năm một lần phất vào. Hay giống như một cái thành lớn có bề cao
và các mặt đều rộng 40 dặm đựng đầy hạt cải, cứ 100 năm lấy ra một hạt
cải, chừng nào hết thì hết một kiếp(1). Về sau, các bộ phái Phật giáo có
cách phân chia về kiếp khác nhau, căn cứ vào tính chất, độ dài của sự
biến đổi trong các sự vật khác nhau. Luận Đại Trí độ chia kiếp thành
Tiểu kiếp và Đại kiếp; luận Đại Tì bà sa chia thành Trung gian kiếp,
Thành hoại kiếp và Đại kiếp; luận Câu xá chia thành Trung kiếp, Thành
kiếp, Đại kiếp và Hoại kiếp; luận Chương sở tri chia thành Trung kiếp,
Thành kiếp, Trụ kiếp, Đại kiếp, Hoại kiếp, Không kiếp... Tuy nhiên, vũ
trụ có vô vàn thế giới mà sự thành trụ của thế giới này là sự hoại không
của thế giới khác. Bởi vậy, thời gian ở những cảnh giới khác nhau cũng
khác nhau. Một kiếp trong thế giới Sabà của Phật Thích Ca bằng 1 ngày
đêm trong thế giới Cực lạc của Phật Adiđà, một kiếp trong thế giới Cực
lạc của Phật Adiđà bằng 1 ngày đêm trong thế giới Casa tràng của Phật
Kim An Kiên...
Đơn
vị đo thời gian nhỏ nhất trong Phật giáo là satna (ksana). Phật giáo
nguyên thuỷ dùng khái niệm satna để chỉ sự biến đổi mau lẹ, vô thường
của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Kinh Phật thường dùng cụm từ
satna vô thường. Về sau, các bộ phái Phật giáo bàn cụ thể hơn về satna
trong thuyết vi trần và thuyết satna. Trong Luận câu xá, Thế Thân định
nghĩa satna là một hạn kỳ cực tiểu để một thể tính được tựu thành và
biến mất ngay. Một satna bằng 1/60 lần tráng sĩ đưa cánh tay ra và xếp
lại. Một satna vật chất lại bằng 16 satna tư tưởng, bởi sự biến đổi của
tư tưởng nhanh hơn sự biến đổi vật chất. Theo Địa tạng pháp số, trong
một niệm (một tư tưởng) có 90 satna. Trong một satna có 900 lần sinh
diệt(2). 120 satna tiếp nối thành một hàng satna, 16 hàng satna thành
một lạp phước, 20 lạp phước thành một giờ (Phẩm Phân biệt thế gian -
Luận Câu xá).
Việc
phân biệt thời gian bằng khái niệm kiếp và satna chứng tỏ năng lực cảm
nhận tinh tế của Phật giáo về sự biến đổi vô thường trong thế giới vi mô
và vĩ mô.
b/ Thời gian vô thuỷ vô chung
ở
góc độ bản thể luận, từ luật vô thường và lý nhân duyên, Phật giáo xem
xét thời gian trong vô cực. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa Phật giáo
và Thiên Chúa giáo. Trong Kinh thánh, tuyên ngôn của Chúa: “Ta đã thả cá
để một ngày ta quăng lưới”, “Ta đã gieo cả lúa mì và cỏ dại để một ngày
ta gặt về tất cả” (Kinh Cựu ước) là lời khẳng định thời gian có điểm
khởi đầu (ngày Chúa sáng thế) và hồi kết thúc (ngày tận thế). Phần lớn
các tôn giáo trên thế giới đều băn khoăn truy tìm nguyên nhân đầu tiên
của thế giới ở một thế lực tinh thần tối cao và khắc khoải bi quan về
giây phút cuối cùng của ngày tận thế. Trái lại, bằng lý nhân duyên, Phật
giáo không thừa nhận có một thời gian tối hậu. Thời gian chẳng qua chỉ
là tên gọi cho sự tiếp nối tương tục của nhân quả. Đó là dòng vận hành
liên tục của thực tại khách quan, thể hiện qua sự biến đổi triền miên
của vạn vật. Thời gian gắn liền với sự vận động của mọi sự vật, hiện
tượng trong thế giới, với dòng chảy của cuộc đời: “Không một khoảnh khắc
nào, một mảy may nào của thời gian mà dòng sông lại không ngừng trôi
chảy” (Kinh Tăng chi IV). Hướng dòng chảy của thời gian qua ba thời: quá
khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng thế giới là một tấm lưới không - thời
gian đan mắc bởi vô số các sự vật hiện tượng trong lý nhân duyên. Bởi
vậy, ba thời dung thông nhau trong trùng trùng duyên khởi. Thời gian
trong vòng tuần hoàn khép kín của kiếp luân hồi, không có điểm khởi đầu
và không có hồi kết thúc (vô thuỷ vô chung). Trong vòng luân hồi bất tận
đó, quá khứ nơi này trở thành tương lai nơi khác. Cái chết trong thời
gian cũng chỉ như thay một bộ y phục thể xác, như hạt giống rơi xuống
đất lại mọc lên thành cái cây, như mặt trời lặn ở phương Tây lại mọc lên
ở phương Đông vậy.
c/ Thời gian trên phương diện tục đế và chân đế
ở góc độ nhận thức luận, Phật giáo xem xét thời gian trên hai phương diện: tục đế và chân đế.
Trên
phương diện tục đế (samaritil) - phương diện nhận thức của những người
bình thường, thời gian chia làm ba thì: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Phái Hữu bộ cho rằng, tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu (ba thế giới
thực có, pháp thể thường còn).
Vì
thế giới là thực có chứ không phải là ảo ảnh, nên sự tồn tại của thời
gian qua ba thời cũng là một thực tế. Thời gian tuần tự trôi chảy theo
dòng tuyến tính từ quá khứ, qua hiện tại tới tương lai.
Trên
phương diện chân đế (paramatha), phương diện thời gian của người đã
giác ngộ, giải thoát, cũng có nghĩa là người đã vượt thoát khỏi sự ràng
buộc của thời gian thì không còn thời nào nữa trong thời gian, kể cả
thời gian cũng không còn nữa. Đó là trạng thái của Thái tử Sidhatha 49
ngày đêm ngồi thiền dưới gốc cây Bồ đề bên dòng Nikiềnliên. Khi nhìn
thấy sao Mai mọc, Thái tử bỗng nhiên bừng tỉnh ngộ. Trong một satna ngắn
ngủi, Thái tử thành Phật bởi đã đạt được sự giác ngộ cao nhất, hiểu
thấu được vạn vật, hiểu thấu được quá khứ, hiện tại và tương lai để
không còn bị ám ảnh bởi thời gian. Tuyên ngôn “Chính lúc này đây ta
thành Phật” là lời tuyên ngôn cao đẹp về giá trị con người, đồng thời
cũng là lời tuyên ngôn của con người đã vượt thoát được sự chi phối của
thời gian để đạt tới cõi vĩnh hằng trong chính tâm thức mình (giải thoát
- moska). Trạng thái Niết bàn (Nirvana) là trạng thái tâm linh thanh
thản, yên tĩnh, sáng suốt của người đã giải thoát. Niết bàn cũng chính
là sự ngưng đọng vĩnh cửu của thời gian trong satna hiện tại, không còn
nhân quả, không còn sinh tử luân hồi. Con người “không truy tìm quá
khứ/không ước vọng tương lai”, sống trong từng satna của đời sống hiện
tại. Bởi thế, đức Phật còn có tên là Như Lai (Tathagatha), nghĩa là
người đã đến như thế, thực chất là người không từ đâu đến mà cũng không
đi đâu. Người sống trong hiện tại tuyệt đối, vĩnh hằng.
Từ
quan niệm vạn pháp duy tâm tạo, Phật giáo Đại thừa nhấn mạnh đến tính
Không của thời gian. Tính Không không đồng nghĩa với chủ nghĩa hư vô,
phủ định thế giới hiện tượng, phủ định hoàn toàn thời gian. Nó gắn với
sự vô thường của thế giới. Trong kinh Kim cương, thế giới biến ảo giống
như “ngôi sao mờ dần buổi bình minh, một chiếc lá trên dòng sông, một
ánh chớp trong đám mây mùa hè, một ngọn đèn le lói, một bóng hình, một
giấc mộng”(3). Buổi tối, nửa đêm hay sớm mai cũng chỉ còn là ảo ảnh:
“Buổi tối nghe gà gáy sáng
Nửa đêm thấy mặt trời soi”(4).
Nói
như lời của Swami Vivekananda: “Thời gian, không gian và mối liên hệ
nhân quả giống như một tấm kính ta nhìn xuyên qua nó để thấy cái tuyệt
đối... Trong tuyệt đối thì không có thời gian, lẫn không gian, lẫn quan
hệ nhân quả”(5).
Nhà
sư Đức Sơn (Nhật Bản) trên đường đi tới Đài Sơn dừng chân bên quán nhỏ
gọi điểm tâm. Bà lão bán quán là người am tường Phật giáo bèn thử thách
nhà sư bằng câu hỏi khó, nếu nhà sư trả lời được thì mới được điểm tâm:
- Kinh Kim cương viết:
“Quá khứ tâm bất khả đắc
Hiện tại tâm bất khả đắc
Vị lai tâm bất khả đắc”
Vậy thầy muốn điểm cái tâm nào đây?(6)
(Điểm
tâm còn có nghĩa là điểm vào cái tâm). Không trả lời được câu hỏi hóc
búa đó, nhà sư đành nhịn đói ra đi. Việc điểm tâm xảy ra trong thời
gian. Trong kinh Kim cương không có thời nào cả. Quá khứ - tương lai,
hữu hạn - vô hạn đồng nhất trong từng satna của đời sống hiện tại. Cái
lưu chuyển vô thường và cái bất tử vĩnh hằng cũng chỉ là một trong tâm
người giải thoát. Con người giải thoát sống trong ánh sáng vĩnh cửu, tự
mình trở thành ánh sáng, trở thành dòng chảy. Khi đó, con người sẽ:
“Bất sinh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn
Bất nhất diệc bất nhị
Bất lai diệc bất xuất”(7).
Khi
hướng vào tâm tìm giải thoát, gạt bỏ đi những phân biệt sinh - tử,
thường - đoạn, một - hai, đến - đi, không còn cách biệt ta và tha nhân,
quá khứ và tương lai... thì chỉ còn một sự đồng nhất tuyệt đối của cái
Không tĩnh lặng đến vô cùng trong tâm người giải thoát. Sống trong ánh
sáng vĩnh cửu, con người đã quét sạch ý niệm về cái tương đối, không
người không vật, không cảnh không ta, chỉ còn ánh trăng Lăng già tịch
tĩnh trên biển cả mênh mông của giải thoát.
Từ
cái nhìn về sự mong manh vô thường của đời sống, Phật giáo khuyến khích
con người biết trân trọng thời gian để sống có ích theo chính pháp
trong từng satna của đời sống hiện tại. Biết chế ngự nỗi lo âu về cái
chết, không khao khát một bản thể trường tồn hay chạy theo những ảo ảnh
phù du của đời sống, con người sẽ trở về với chính mình, đánh thức Phật
tính trong tâm mình để thành Phật giữa cuộc đời.
Đi
từ ngoài vào trong, từ đa dạng tới nhất thể, từ động đến tĩnh, từ tương
đối tới tuyệt đối, đó là con đường tư duy của Phật giáo về thời gian.
2. Vấn đề thời gian trong vật lý học hiện đại
Theo
Bách khoa toàn thư mở: “Thời gian là một đại lượng biến thiên và là
thành phần của một hệ thống đo lường được dùng để diễn tả trình tự xảy
ra của các sự kiện, để so sánh độ dài của các sự kiện và khoảng cách
giữa chúng, để lượng hoá chuyển động của các đối tượng” (Wikipedia).
Trong
vật lý học cổ điển từ thế kỷ XVI, Galilleo đã coi thời gian như một
công cụ để nối kết các chuyển động của các đối tượng nghiên cứu. Tới thế
kỷ XVII, Newton đã nghiên cứu về thời gian như một đối tượng tuyệt đối,
tách rời khỏi vật chất, trôi đều đặn từ quá khứ đến tương lai. Theo
Newton, thời gian tuyệt đối, đích thực, có tính toán học, theo tự tính
của nó là đều đặn và không liên quan gì đến bất cứ vật nào(8). Newton
cảm nhận được dòng chảy, hướng chảy của thời gian về phía tương lai. Đối
với Newton, chỉ cần có một chiếc đồng hồ tốt thì dù ở bất kỳ vị trí
nào, người ta cũng có thể đo khoảng cách giữa hai sự kiện với lượng thời
gian bằng nhau. Nhưng tới đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện của A.Enstein với
phát minh khoa học về thuyết tương đối đã đem lại một cái nhìn mới về
thời gian. Đó là thời gian gắn liền với không gian, giống như tình bạn
phải có những người bạn vậy. Thời gian không cố định mà thay đổi cùng sự
thay đổi của vận tốc và trọng lực của vật.
Trong
thuyết tương đối hẹp (1905), A.Enstein cho rằng, không có một thời gian
tuyệt đối, duy nhất. Mỗi người có một độ đo thời gian riêng của mình,
phụ thuộc vào vị trí họ đứng, tốc độ chuyển động của họ. Bởi vậy, nếu
xảy ra vụ nổ ở một ngôi sao cách trái đất một tỉ năm ánh sáng thì phải
tới một tỉ năm sau con người nơi mặt đất mới quan sát thấy vụ nổ ấy
Theo lý thuyết tương đối của A.Enstein, ở tốc độ vận động bằng tốc độ
của ánh sáng, kích thước vật thể rút ngắn lại và thời gian trôi chậm đi.
Nghịch lý trẻ sinh đôi minh chứng cho lý thuyết này. Nếu hai anh em
sinh đôi, một người ở lại trái đất, một người đi vào vũ trụ, sau một
thời gian trở về thì người đi vào vũ trụ sẽ trẻ hơn người anh em sinh
đôi của mình. Một con tàu vũ trụ phóng vào không gian với vận tốc bằng
87% vận tốc ánh sáng thì thời gian sẽ chậm đi bằng 1/2 so với thời gian
trên trái đất. Và nếu nó vận động với vận tốc 99% vận tốc ánh sáng thì
thời gian trôi chậm đi 22,4 lần. Điều này cũng tương tự như quan niệm
của Phật giáo về thời gian khác nhau trong các cảnh giới khác nhau.
Trong
lý thuyết tương đối hẹp, vấn đề thời gian còn được xem xét dưới góc độ
tâm lý. Theo A,Enstein, ở góc độ tâm lý chủ quan, mọi cái trong thế giới
đều “hư nguỵ”, vật chất hư nguỵ, không gian hư nguỵ, thời gian tưởng
chừng tuyệt đối cũng hư nguỵ mà thôi. Sự trôi chảy của thời gian chỉ là
một ảo tưởng của tâm thức. Thuyết tương đối được giải thích khá hóm hỉnh
bằng hình ảnh bếp lò nóng và cô gái đẹp. Khi người đàn ông ôm một cô
gái đẹp trong lòng thì thời gian một giờ tưởng chừng như chỉ là một
phút. Trái lại, khi anh ta buộc phải ngồi gần một cái bếp lò quá nóng
thì thời gian một phút tưởng như một giờ.
Sau
khi phát minh ra thuyết tương đối hẹp, tới năm 1916 A.Enstein tiếp tục
phát triển thuyết tương đối tổng quát, trong đó có tiên đoán về sự tồn
tại của các lỗ đen (bkack hole) trong vũ trụ. Không gian và thời gian
như một tấm vải có thể co giãn và rách được. Chỗ rách của tấm vải không -
thời gian chính là lỗ đen. Khi thiên thể co lại thì sức hút của nó tăng
lên, không - thời gian quanh nó cũng tăng độ cong. Tới một thời điểm
nhất định, không - thời gian quanh thiên thể đó cong tới mức ánh sáng
cũng không thoát ra nổi. Khi đó, trong lỗ đen, thời gian ngừng lại,
không còn trôi chảy. Năm 1995, Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu Âu
(CERN) đã tạo ra được 9 hạt phản nguyên tử (phản vật chất) - một dạng
vật chất đặc biệt có khả năng hút nguyên tử vào nó. Đây là một trong
những cơ sở để khẳng định về sự tồn tại thực tế của lỗ đen trong vũ trụ.
Gần đây, các nhà thiên văn học quan sát trên bầu trời thấy có những “vì
sao nặng”, quay quanh một đối tượng vô hình. Đối tượng ấy có thể là một
lỗ đen trong vũ trụ(9).
Giữa
thế kỷ XX, Stephen Hawking tiếp tục phát triển tư tưởng về lỗ đen trong
vũ trụ bằng giả thuyết: khi vật chất bị rơi vào lỗ đen, thời gian ngừng
lại, sự vật bất động trong trạng thái tiềm sinh. Vào cuối thế kỷ XX,
con người nỗ lực tìm kiếm những sự kiện lạ để chứng minh cho giả thuyết
này. Ngày 14-4-1912, con tàu huyền thoại Titanic va phải băng khiến 1500
người bị mất tích. 80 năm sau, ngày 24-9-1990, tàu Foshogen đang đi
trên biển Bắc Đại Tây Dương đã phát hiện từ vách núi một phụ nữ quý tộc
Anh bị ướt sũng tên là Kate - là người đã mất tích trên con tàu Titanic.
Ngày 9-8-1991, người ta lại cứu sống được người đàn ông tên là Smith có
dấu vân tay trùng với dấu vân tay của thuyền trưởng Smith của tàu
Titanic…(10). Một số sự kiện mất tích bí ẩn rồi sau một thời gian dài
lại xuất hiện trở lại giống hình hài ban đầu càng khẳng định các lỗ đen
(hay “lỗ hổng thời gian”, “đường hầm không - thời gian”) trong vũ trụ là
sự thật. Phải chăng vật chất đã vô tình bị hút vào lỗ hổng đó để tồn
tại trong trạng thái tiềm sinh (somachi) của thời gian tĩnh lặng? Và khi
nào “lỗ hổng thời gian” mở ra, vật chất đó lại xuất hiện với hình hài y
như khi nó bị hút vào. Tới đây, trạng thái Niết bàn trong Phật giáo -
sự tĩnh lặng, ngưng đọng vĩnh cửu của thời gian trong tâm người giải
thoát có điểm gặp gỡ với sự tĩnh lặng vô cùng của “lỗ hổng thời gian” và
sự ngưng đọng của vật chất trong lỗ hổng đó. Tuy nhiên, Phật giáo nói
tới Niết bàn trong tâm thức con người, còn vật lý học hiện đại bàn tới
“lỗ hổng thời gian” tồn tại khách quan trong thế giới vật chất.
Qua
sự phân tích trên, có thể thấy, Phật giáo và vật lý học hiện đại có
những điểm tương đồng sâu sắc trong quan niệm về thời gian. Điều đó
khiến A.Enstein có cảm tình đặc biệt với Phật giáo. Ông đã từng phát
biểu trong một cuộc hội thảo về tôn giáo với khoa học tại New York: “Nếu
trên thế giới có một tôn giáo nào có thể đương đầu với những nhu cầu
của khoa học hiện đại thì tôn giáo ấy phải là Phật giáo. Phật giáo không
cần phải xét lại những quan điểm của mình theo khoa học vì Phật giáo
bao gồm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học”(11). Có thể thấy một số
điểm tương đồng trong quan niệm về thời gian giữa Phật giáo và vật lý
học hiện đại, đó là:
1.
Bằng cái nhìn kết và động, Phật giáo và vật lý học hiện đại đều thấy sự
dung thông giữa không gian và thời gian trong một tấm lưới vũ trụ hoàn
hảo.
2. Cả hai đều thừa nhận tính vô cực (vô thuỷ vô chung) của thời gian trong sự vô thường của thế giới.(11).
3. Cả hai đều thừa nhận tính tương đối và tuyệt đối của thời gian.
Tuy
nhiên, quan niệm về thời gian của Phật giáo không đồng nhất hoàn toàn
với những kiến giải khoa học về thời gian của vật lý học hiện đại. Những
dị biệt trong hai quan niệm là:
1.
Vật lý học hiện đại xây dựng khái niệm thời gian bằng thực nghiệm lý
thuyết, còn Phật giáo lại dựa vào sự mách bảo của trực giác kinh nghiệm.
2.
Phật giáo (đặc biệt là Thiền Đại thừa) hướng nội để tìm thời gian tương
đối và sự ngưng đọng vĩnh hằng tuyệt đối của thời gian trong tâm thức
con người; vật lý học hiện đại hướng ngoại để tìm thời gian tương đối
trong thế giới vật chất, thời gian tuyệt đối trong lỗ đen vũ trụ.
Tuy nhiên, sự khác nhau giữa hai quan niệm đó cũng chỉ mang tính chất tương đối mà thôi.
Việc
tìm hiểu, so sánh quan niệm về thời gian trong Phật giáo và vật lý học
hiện đại giúp chúng ta thấy được sự vượt trước kỳ lạ của Phật giáo về
vấn đề thời gian, sự gặp gỡ giữa Phật giáo và khoa học, sự giao thoa văn
hoá Đông - Tây, từ đó xây dựng một nền văn hoá minh triết trong thời
đại toàn cầu hoá. Đó là nền văn hoá kế thừa và phát huy những tinh hoa
văn hoá truyền thống của dân tộc và nhân loại - nền văn hoá nhân bản,
khai phóng và dung thông trong thời đại ngày nay.
…………………
(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
(1) Đoàn Trung Còn. Phật học từ điển, t.II, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1997, tr.108 - 109.
(2) Đoàn Trung Còn. Phật học từ điển. Sđd., tr.726.
(3) Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh. Kinh Kim cương. www.quangduc.com.vn.
(4) Đoàn Trung Còn. Phật học từ điển, t.II, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1997, tr.108 - 109.
(5)
Fritjof Capra. Đạo của vật lý - một sự khám phá mới về sự tương đồng
giữa vật lý học hiện đại và đạo học phương Đông. Nxb Trẻ, 2001, tr. 171.
(6) Daisetz Teitaro Suzuki. Huyền học đạo Phật và Thiên Chúa. Nxb Kinh thi, 1974, tr.143.
(7) Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh. Kinh Kim cương. Sđd., tr.142.
(8)
Xem Fritjof Capra. Đạo của vật lý - một sự khám phá mới về sự tương
đồng giữa vật lý học hiện đại và đạo học phương Đông. Sđd.,
(9)
Xem Fritjof Capra. Đạo của vật lý - một sự khám phá mới về sự tương
đồng giữa vật lý học hiện đại và đạo học phương Đông. Sđd.,
(10) Hồ Nguyễn Việt Thư. Đi vào khe hở thời gian. http://chungta.com, 2009.
(11) Thích Hạnh Đức. Phật giáo với thời đại, www.quangduc.com.vn, 2008.
Nguồn:vientriet,com