Bàn về chủ thuyết các bộ phái
GS. Minh Chi
Ở đây, chỉ trình bày chủ thuyết của những bộ phái quan trọng nhất (*) :
1. Sthaviravadins hay là Theravadins (Thượng tọa bộ)
Giáo lý nguyên thủy của Đức Phật, được ghi bằng tiếng Pàli, thuộc về bộ phái
Theravada (Thượng tọa bộ) có thể được gọi là bộ phái chính thống nhất của Phật
giáo. Bộ phái này thừa nhận Thích Ca là một nhân vật lịch sử, một con người,
với những hạn chế nhất định của con người, tuy vẫn có một số quyền năng siêu
nhiên. Kinh Phật kể rằng có lúc Phật Thích Ca tỏ ra khó chịu trước một số Tỷ
kheo làm ồn ào, mà Phật quở trách là mất trật tự như hàng cá ngoài chợ. Đôi khi
Phật nói Phật già và đau lưng.
Theo bộ phái Thượng tọa bộ, giáo lý của Phật khá giản dị: trừ bỏ mọi điều
ác, làm mọi điều lành và làm trong sạch tâm ý mình, nhờ học và hành ba môn
giới, định, tuệ. Giới hay giới hạnh là nền tảng của mọi tiến bộ ở thế gian. Một
Phật tử tại gia phải tránh không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không
nói dối và không say rượu. Nếu là xuất gia thì phải từ bỏ hẳn dâm dục, theo
đúng bốn giới còn lại của người tại gia, ngoài ra còn giữ thêm một số giới như:
không dùng vòng hoa và phấn son để trang sức mình, tránh ngồi, nằm ở giường
cao, rộng, êm, không được dùng vàng bạc, không được dự các buổi hòa nhạc, diễn
kịch, vũ hội, không được ăn quá trưa.
Mục đích của tu tập Thiền định là đạt tới một tình trạng tâm lý hoàn toàn
cân bằng, nhờ đó mà có thể nhận thức được sự vật với thái độ khách quan, đúng
đắn, như chúng tồn tại như thật. Nhờ tu tuệ mà có được nhận thức sâu sắc về bốn
chân lý thánh, về luật duyên khởi giải thích sự diễn biến của luân hồi sanh tử
từ kiếp sống này sang kiếp sống khác.
Mọi hiện tượng của đời sống đều có ba đặc điểm là vô thường, khổ, vô ngã,
nghĩa là không có gì chân thực, vĩnh cửu, không có thực thể. Mỗi chúng sanh kể
cả con người chỉ là một tổng hợp của hai nhóm yếu tố danh (tinh thần) và sắc
(vật chất), nếu phân tích chi ly hơn, thì thành năm uẩn (Skkandas) tức là sắc
uẩn, là nhóm yếu tố vật chất; thọ uẩn, nhóm cảm thọ; tưởng uẩn, nhóm ghi nhớ và
tưởng tượng; hành uẩn, nhóm dụng tâm và tác ý; thức uẩn, nhóm phân biệt. Bốn
thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn bao gồm mọi yếu tố tinh thần trong con
người. Nếu kể cả sáu trần, ngoại cảnh thì có 12 xứ: sáu căn mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý và sáu ngoại và nội trần tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Và nếu thêm sáu thức nữa: nhãn thức (sự phân biệt của mắt), nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức, ý thức thì chúng ta có 18 giới (dhatua).
Năm uẩn, 12 xứ, 18 giới đó chính là tất cả thế giới của loài hữu tình. Có
thể nói Thượng tọa bộ có một quan điểm đa nguyên về cấu trúc của loài hữu tình
và thế giới.
Với các bộ phái khác, con số 18 giới còn tăng thêm nhiều nữa. Đến cuộc đại
hội kiết tập lần thứ ba ở Pataliputra, bộ phái này được gọi là vibhajyavada
(phân tích bộ, cũng gọi là phân biệt thuyết bộ).
Trong bộ luận Abhidhammattha-sangica, mà soạn giả là Anuruda-hacarya, sống
vào thế kỷ 8-12 TL, toàn thể các pháp được phân làm 4 loại: Tâm pháp, tâm sở
pháp, sắc pháp và niết bàn. Đó là bộ Luận tổng hợp nhất và mới nhất của bộ phái
này. Tâm pháp được tác giả phân tích thành 89 loại, tâm sở pháp thành 52 loại,
sắc pháp thành 28 loại. Niết bàn là trạng thái hỷ lạc tuyệt đối không thể mô
tả.
Khi một người hiểu được thực chấẽt của mọi sự vật và hiện tượng thế gian,
thì anh ta rời bỏ cuộc sống thế tục, sống theo nếp sống Bát chánh đạo: Chánh
tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn,
Chánh niệm và Chánh định. Khi anh ta đạt được tới tâm trạng hoàn toàn thanh tịnh,
mọi tham sân, si đều trừ diệt đến gốc rễ thì trở thành A La Hán. Quả A La Hán
là lý tưởng của bộ phái này, khi cuộc sống Thánh đã được thành tựu, mọi việc
cần làm đã được làm, đời sống này là đời cuối cùng, vĩnh viễn sẽ không còn phải
tái sanh nữa.
2. Bộ phái Mahisasakas (Hóa địa bộ)
Về nguồn gốc của bộ phái này, có sự tranh cãi: Trong khi các tư liệu Pàli
cho rằng, bộ phái này cùng với bộ phái Vatsiputriyas (Độc tử bộ) tách khỏi
Thượng tọa bộ sau đó lại sản sinh ra Nhất thiết hữu bộ. Còn Vasumitra thì cho
rằng, chính bộ phái Mahisasakas tách khỏi hữu bộ.
Người ta cho rằng có hai nhóm Mahisasakas hoạt động trong hai thời điểm khác
nhau. Thuộc nhóm này, đầu tiên có thể là Purana, là vị A la hán không tán thành
những quyết định của cuộc Đại hội kiết tập lần thứ nhất ở Vương Xá.
Cũng như Thượng tọa bộ, bộ phái Mahisasakas tin rằng đã tu đến quả vị A la
hán, thì không có thối chuyển. Nhưng mới đến quả Dự lưu thì có thể thối chuyển
(arotapannas), chư thiên hay quỷ thần đều không thể sống cuộc sống Thánh, và
ngoại đạo không thể chứng thần thông. Không có trung ấm thân giữa kiếp sống này
và kiếp sống khác. Phật Đà bao gồm cả trong Tăng già cho nên cúng dường Tăng
bảo sẽ được nhiều công đức hơn là cúng dường riêng cho Đức Phật. Trong tám mục
của Bát thánh đạo, thì ba mục chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, không được
xem là những mục thực có, bởi lẽ chúng không phải là những hoạt động tâm thức.
Điều hứng thú là những người theo bộ phái Mahisasakas về sau lại có những
quan điểm trái ngược với những người theo bộ phái đó trước đây. Những người
theo bộ phái này, về sau đồng ý với Hữu bộ cho rằng quá khứ, hiện tại và vị lai
đều tồn tại, tin rằng có trung ấm thân, cho rằng các uẩn, xứ, giới đều luôn
luôn tồn tại dưới hình thức chủng tử.
3. Bộ phái Sarvastivada (Nhất thiết hữu bộ)
Trong những bộ phái Phật giáo dùng chữ Sanskrit, thì bộ phái Sarvastivada tỏ
ra gần gũi nhất với Thượng tọa bộ. Sau khi Thượng tọa bộ suy thoái, thì Hữu bộ
đứng ở hàng đầu chống lại mọi mũi tiến công của Phật giáo Đại thừa. Luận sư
Vasubandhu (Thế Thân) là đại biểu xuất sắc của bộ phái này trước khi ông được
người anh là Asanga (Vô Trước) giác ngộ theo Đại thừa.
Bộ phái này thịnh hành ở Ấn Độ tại tỉnh Penjeb và ở các tỉnh biên giới phía
Bắc (nay thuộc Pakistan). Hoàng đế Kaniskha là thí chủ lớn của bộ phái này (thế
kỷ 1 TL). Chính dưới triều vua Kaniskha, đã diễn ra cuộc đại hội kiết tập kinh
điển nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo. Người ta kể rằng, trong cuộc đại hội
này, ba tạng Kinh, Luật, Luận đã được sắp xếp và khắc trên bản đồng cất giấu
trong một bảo tháp. Nhưng đến nay người ta vẫn chưa tìm ra được những bản đồng
này.
Niềm tin tất cả mọi sự vật, mọi pháp đều tồn tại - sarvamsati, có nguồn gốc
từ trong kinh tạng Pàli Samuytha Nikaya - Tương ưng bộ kinh (Sabbham atthi) là
nguồn gốc của tên gọi bộ phái: Nhất thiết hữu nghĩa là tất cả đều tồn tại. Hữu
bộ chủ trương thực tại luận cũng như Thượng tọa bộ vậy. Họ tin rằng, không
những pháp hiện tại là có thực mà cả pháp quá khứ và vị lai đều có thực. Cũng
như Độc tử bộ, (Vatsiputriyas) và Chánh lượng bộ (Sammityas), Hữu bộ cũng chống
lại vị trí tuyệt đối của A la hán. Họ nói A la hán cũng có thể thối chuyển,
nhưng thực là đáng ngạc nhiên, họ lại cho rằng những người mới chứng quả Tu đà
hoàn (Dự lưu) lại không thối chuyển. Họ không tán thành quan điểm của Đại chúng
bộ, cho rằng Phật và Bồ tát có những quyền năng siêu nhiên. Họ tin có trung ấm
thân. Họ tin rằng các vị Bồ tát cũng chỉ là những người bình thường, và ngay
các bậc A la hán cũng không thoát khỏi hậu quả của những nghiệp nhân quá khứ.
Và A la hán vẫn còn phải học thêm nữa.
Trong con người, họ không tin là có một thực thể hay ngã nào tồn tại. Nhưng
họ lại tin các pháp là có thực. Họ tin ở thế giới, một vũ trụ đa nguyên. Họ
phân biệt có 75 pháp, trong số này, 72 là pháp hữu vi, có sanh diệt, do nhân
duyên sanh và ba pháp vô vi, không sanh diệt, không do nhân duyên sanh. Ba pháp
vô vi là hư không Akasa, trạch diệt (đoạn diệt nhờ có trí tuệ phân biệt), và
phi trạch diệt, nghĩa là đoạn diệt do quá trình tự nhiên, hay là do thiếu nhân
duyên. 72 pháp hữu vi phân thành bốn nhóm: sắc pháp gồm 11 loại, tâm pháp, 46
tâm sở pháp và 14 pháp gọi là bất tương ưng hành pháp. Loại pháp này mang tên
như vậy, vì chúng tuy không thuộc tâm pháp hay là sắc pháp, nhưng chúng không
thể hoạt động được nếu không có tâm pháp hay là sắc pháp làm nền tảng, làm nơi
nương tựa.
Bộ phái Sarvastivadas còn có tên gọi Hetuvada: nhân duyên bộ.
4. Bộ phái Haimavata (Tuyết sơn bộ)
Qua tên gọi, có thể biết địa bàn hoạt động của bộ phái này đầu tiên ở vùng
núi Tuyết Sơn (Himalayas). Vasumitra cho rằng, Tuyết Sơn bộ là một bộ phái
nhánh tách ra từ Thượng tọa bộ, nhưng một vài tác giả khác như Bhavya
Vinitadeva lại cho rằng Tuyết Sơn bộ là một bộ nhánh của Đại chúng bộ. Cũng như
Hữu bộ, họ cho rằng Bồ tát không có vị trí ưu thế gì đặc biệt. Chư thiên và quỷ
thần không thể sống cuộc sống Thánh, và ngoại đạo không thể chứng phép thần
thông.
5. Bộ phái Vatsiputriyas (Độc tử bộ)
Đặc sắc của bộ phái này so với các bộ phái Phật giáo khác, là cùng với Chánh
lượng bộ (Sammitiya) là một bộ phái nhánh của nó, chủ trương thuyết pudgala,
một thực thể vĩnh cửu trong con người. Họ dựa vào nhiều đoạn trong kinh tạng
nguyên thủy có dùng từ pudgala, và lập luận rằng, nếu không có pudgala, thì
không thể có tái sinh. Theo họ, pudgala, không đồng nhất cũng không tách biệt
khỏi năm uẩn. Giống như Hữu bộ, họ cho rằng A la hán có thể thối chuyển, và
ngoại đạo cũng có thể chứng phép thần thông. Theo Chánh lượng bộ thì chư thiên
hay quỷ thần đều không thể sống cuộc sống Thánh. Họ tin có trung ấm thân. Cũng
như bộ phái Mahisasakas, trong tám mục của bát chánh đạo, họ không kể ba mục
Chánh nghiệp, Chánh ngữ, Chánh mạng, vì không phải là hoạt động tâm thức. Dưới
thời vua Harsa Ấn Độ, bộ phái này được người em gái của vua là Rajyasri đỡ đầu.
Bộ phái này còn có tên gọi Avantika (Bất khả diệp bộ) nghĩa là hoạt động ở
Avanti.
6. Bộ phái Dharmaguptas (Pháp tạng bộ)
Bộ phái này tách khỏi bộ phái Mahisasaka ở điểm cúng dường Phật hay là cúng
dường Tăng bảo. Họ rất chú trọng cúng dường Phật, những bảo tháp thờ Phật, như
ghi rõ trong luật tạng của họ. Cũng như bộ phái Mahisasakas, họ tin là A la hán
đã diệt trừ mọi dục vọng, và ngoại đạo không thể chứng thần thông.
Bộ phái này phổ cập ở Trung Á và Trung Hoa, họ có Kinh tạng, Luật tạng của
họ. Các tu viện chùa chiền ở Trung Hoa đều giống theo luật tạng của bộ phái
này.
7. Bộ phái Kasyapiyas (Ấm quang bộ)
Bộ phái này rất gần gũi với Thượng tọa bộ, cho nên họ cũng có tên gọi
Sthavariyas. Sách Tây tạng gọi họ là Suvaraaka. Họ cho rằng, thời quá khứ một
khi đã sinh quả rồi thì không còn tồn tại nữa, nhưng phần thời quá khứ chưa
sinh quả vẫn tồn tại. Đó là điểm khác biệt với Hữu bộ, vì đối với Hữu bộ, thời
quá khứ cũng tồn tại như thời hiện tại vậy.
Người ta cho rằng bộ phái Kasyapiyas muốn điều hòa quan điểm giữa hai bộ
phái Sarvastivada và Vibhajyavadina (phân tích bộ). Họ cũng có ba tạng kinh
điển của họ.
8. Bộ phái Sautrantikas (Kinh lượng bộ)
Theo tài liệu Pàli, bộ phái Sànkrantivadins tách khỏi bộ phái Kasyapiyas,
rồi bộ phái Sautrantikas lại tách khỏi bộ phái Sankrantivadins; còn theo Vasumitra,
hai bộ phái này là một. Như tên gọi, bộ phái này tin ở sankranti, tức là có một
thực thể chuyển từ cuộc sống này sang cuộc sống khác. Trong năm uẩn, thì chỉ có
uẩn vi tế nhất là di chuyển từ cuộc sống này sang cuộc sống khác. Còn Độc tử bộ
thì lại cho rằng một pudgala không phải đồng nhất nhưng cũng không tách khỏi
năm uẩn, di chuyển từ cuộc sống này sang cuộc sống khác. Theo họ, cái uẩn vi tế
nhỏ nhiệm đó chính là cái pudgala thực, giống như cái tâm thức vi tế nhỏ nhiệm
của Đại chúng bộ, thấm nhuần vào toàn bộ sắc thân. Cũng giống như thức A lại
gia của học phái Duy thức Du già vậy. Rất có thể là bộ phái này đã lấy thuyết
tâm thức vi tế từ Đại chúng bộ sau đó truyền lại cho học phái Duy thức Du già.
Bộ phái này cũng tin là trong mỗi người có khả năng tiềm ẩn trở thành Phật
trong tương lai, một thuyết Đại thừa giáo. Vì những quan điểm như vậy, bộ phái
này được xem là cái cầu bắc nối giữa Thanh văn thừa và Đại thừa giáo.
9. Bộ phái Mahasanghikas (Đại chúng bộ)
Hiện nay, mọi người đều cho rằng Đại chúng bộ là bộ phái chủ trương phân
phái sớm nhất và là tiền thân của Phật giáo Đại thừa.
Do nhiệt tình truyền đạo lớn của họ, cho nên chỉ trong vòng vài thập kỷ, bộ
phái của họ phát triển nhanh chóng, họ làm cho những giới luật hiện hành thích
ứng với chủ thuyết của họ, và đưa thêm một số giới điều mới. Tăng già Phật giáo
được cách tân, do ảnh hưởng của họ. Họ cũng cải biên nhiều trong việc sắp xếp
và giải thích ba tạng kinh điển. Họ công bố nhiều kinh mới, mà họ cho rằng là
do Đức Phật Thích Ca đích thân nói ra. Họ bác bỏ một số kinh được kiết tập
trong kỳ đại hội kiết tập lần thứ nhất ở thành Vương Xá. Họ không công nhận là
Phật đã thuyết các bộ kinh Parivara, Abhidamma (Luận tạng), Patisambhida,
Niddesa và một bộ phận Jataka (Bổn sanh). Parivara là một phụ lục của luận
tạng, và có thể là tác phẩm của một Tăng sĩ Xây-lan. Còn Luận tạng Abhidamma
thì được kiết tập dưới triều vua Asoka, trong cuộc đại hội kiết tập lần thứ ba.
Còn ngay thời hiện nay, nhiều người cũng công nhận là các sách Niddesa,
Patisambhida và một bộ phận của truyện Bổn Sanh là không phải Phật thuyết.
Những bộ sách này được soạn về sau này, do đó bộ phái Mahasanghikas không chịu
xếp chúng vào ba tạng kinh điển của họ. Trái lại, họ thêm vào ba tạng kinh điển
những kinh đã từng bị Đại hội kiết tập lần thứ nhất loại bỏ. Bộ Tam tạng của
họ, gọi là Acaryavada, khác với bộ Tam tạng được kiết tập ở Đại hội Vương Xá.
Theo Huyền Trang, Đại chúng bộ có kinh điển riêng của họ, chia thành năm
phần: Kinh, Luật, Luận, Đà la ni tạng và Tạp tạng. Cũng theo Huyền Trang, Luật
tạng của Đại chúng bộ giống như luật tạng được kiết tập tại thành Vương Xá,
trong cuộc Đại hội lần thứ nhất. Trong số 657 bộ sách do Huyền Trang đưa về
Trung Quốc, có 15 bộ sách của Đại chúng bộ viết về Kinh, Luật, và Luận. Trước
Huyền Trang, Pháp Hiển cũng đem về toàn bộ Luật tạng của Đại chúng bộ, lấy được
ở Pataliputra. Trong bộ danh mục Nanjo, có cả Luật Tỷ kheo và Luật Tỷ kheo ni
thuộc Đại chúng bộ. Cuốn Mahavastu hay Mahavastu avadana là của Đại
chúng bộ. Đó là cuốn đầu tiên trong bộ luật tạng của bộ phái Lokottaravadins
(Thuyết xuất thế bộ) là một bộ phái nhánh của Đại chúng bộ. Theo bộ phái này,
Đức Phật là siêu thế (Lokottara) và chỉ quan hệ với cuộc sống thế gian trên
hình thức bề ngoài mà thôi. Một quan niệm về Phật như vậy giúp nhiều cho sự
phát triển triết lý của Đại thừa giáo. Lịch sử Đức Phật là chủ đề chính của
cuốn Mahavastu, ngoài ra còn có tư liệu về sự hình thành Giáo hội Tăng già,
những vị xuất gia đầu tiên. Cuốn sách viết một phần bằng tiếng Sanskrit, một
phần bằng tiếng Sanskrit tạp, và có thể được soạn trong thời gian từ thế kỷ II
trước CN và thế kỷ VI sau công nguyên. Sanskrit tạp là một loại chữ Prakrit.
Vào thế kỷ II sau NB, Đại chúng bộ phân thành Nhất thuyết bộ Ekavyaharika và
Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravada), Kê dẫn bộ - Gokulika (cũng gọi là
Kukkutika), Đa văn bộ (Bahusrutiya) và Thuyết giả bộ (Prajnaptivada), và một
thời gian ngắn sau đó thì xuất hiện hai bộ phái Tây Sơn trụ bộ và Đông Sơn trụ
bộ (Aparasaila và Uttarasaila).
Caityakas (Chế đa sơn bộ) có tên gọi như vậy, vì bộ phái này coi trọng việc
xây dựng và cúng dường các Caityas (bảo tháp thờ xá lợi Phật). Tất cả những bộ
phái trên đều mở đường cho sự hưng khởi của Đại thừa giáo.
Hai bộ phái Đông Sơn trụ bộ và Tây Sơn trụ bộ có tên gọi như vậy do địa bàn
hoạt động xung quanh hai đồi phía đông và phía tây dãy núi Andha. Họ cũng có
tên gọi chung là Andhakas, là tên địa lý vùng hoạt động của họ.
Cả ba bộ phái Chế đa sơn bộ, Đông Sơn trụ bộ và Tây Sơn trụ bộ đều có ảnh hưởng
lớn ở miền Nam Ấn.
Lúc đầu, họ gặp sự chống đối quyết liệt của Thượng tọa bộ, nhưng dần dần họ
trở thành một bộ phái lớn mạnh, có vị trí ở Pataliputra, Vaisali và phát triển
cả về phía Nam lẫn phía Bắc Ấn.
Các chủ thuyết của Đại chúng bộ được ghi lại trong tập Kathavatthu, cuốn
Mahavastu và trong các tác phẩm của Vasumitran Bhavya và Vinitadeva. Đại chúng
bộ chấp nhận các chủ thuyết căn bản của Phật giáo như Tứ đế, 12 nhân duyên, Bát
chánh đạo, thuyết Vô ngã, thuyết Nghiệp báo, thuyết Nhân duyên sanh, ba mươi
bảy phẩm trợ đạo, thứ bậc các quả vị chứng đắc trên con đường tu đạo. Các Đức
Phật đối với họ là siêu thế, hoàn toàn thanh tịnh; thân, thọ, mạng và quyền
năng của các Đức Phật là vô biên. Các Đức Phật không ngủ, không nằm mơ, luôn
luôn ở trong định. Trí tuệ của Phật nắm bắt mọi sự vật, hiện tượng trong một
sát na. Nói tóm lại, tất cả những gì thuộc về các Đức Phật đều là siêu nhiên.
Quan niệm của Đại chúng bộ về Đức Phật, dẫn tới thuyết ba thân của Phật về
sau này, cũng như khái niệm Bồ tát, sau này trở thành nhân vật trung tâm của
Đại thừa giáo. Theo Đại chúng bộ, Bồ tát cũng là siêu nhiên. Vì hậu thân Bồ tát
vào bụng mẹ dưới hình thức con voi trắng, và ra khỏi bụng mẹ ở hông bên phải.
Vì lòng thương tưởng đối với chúng sanh, các Đức Phật chủ động giáng thế theo
bất cứ hóa thân nào mà các Ngài chọn. Chính những khái niệm như thế dẫn tới sau
này thần thánh hóa Phật và Bồ tát. Một bộ phận của Đại chúng bộ, những người
theo Mahadeva, cho rằng A la hán cũng còn nhược điểm, cũng còn phải học, còn có
điểm nghi hoặc.
Sau đây là một số chủ thuyết khác của Đại chúng bộ:
1) Năm thức đầu hoạt động có thể dẫn tới tham trước những chuyện thế tục,
nhưng đồng thời cũng có thể dẫn tới ly tham.
2) Các quan năng (mắt...) chỉ là thịt cho nên chúng không biết được hoạt động
của các tâm thức (vijnanas).
3) Có thể diệt tận mọi đau khổ và chứng đạt cảnh Niết bàn tuyệt đối an lạc
thông qua trí tuệ.
4) Vị Dự lưu (Srotapanna) có thể bị thối chuyển, còn A la hán thì không còn
thối chuyển. Vị Dự lưu có thể biết rõ tự thân mình, nhờ hoạt động của tâm và
tâm sở. Dự lưu có thể phạm mọi loại giới tội trừ năm tội cực trọng là giết cha,
giết mẹ, giết A la hán, làm Phật chảy máu và phá hòa hợp Tăng.
5) Mọi hành động đều là ác hay thiện, không thể có hành động bất định, không
phải ác, không phải thiện.
6) Bản chất của tâm là thanh tịnh, nhưng nó có thể bị ô nhiễm bởi các dục
vọng và những niệm xấu khác.
7) Không có trung ấm thân giữa kiếp sống này và kiếp sống khác.
Tăng sĩ thuộc Đại chúng bộ mặc áo màu vàng, vạt áo dưới buộc chặt vào bên trái.
10. Bộ phái Bahusrutiyas (Đa văn bộ)
Bộ phái này được nhắc tới trong các bia ký ở Amaravati và Nagarjunakonda và
là một bộ phái nhánh xuất hiện sau này của Đại chúng bộ, và được sáng lập bởi
một luận sư có kiến thức uyên bác về triết học Phật giáo, tên là Bahusrutiya.
Bộ phái này cho rằng các thuyết Vô thường, Khổ, Không, Niết bàn của đạo Phật
đều có ý nghĩa xuất thế bởi vì chúng dẫn tới giải thoát. Còn những chủ thuyết
khác chỉ có giá trị thế tục. Họ chủ trương Tăng già không bị luật pháp thế tục
hạn chế. Họ chấp nhận năm thuyết của Đại Thiên (Mahadeva).
Theo Paramartha (Chân Đế), bộ phái này đã cố gắng điều hòa Thanh văn thừa
(Sravakayana) và đại thừa. Bộ luận thành thực (Satyasiddhi) là bộ luận chủ yếu
của bộ phái này. Tác giả là Harivarman. Harivarman chủ trương tất cả các pháp
không phải riêng các loài hữu tình mà mọi sự vật đều vô ngã, không có thực thể.
Ông cũng công nhận có hai loại chân lý: chân lý quy ước gọi là Tục đế và chân
lý tuyệt đối tức là Chân đế. Theo Tục đế, vũ trụ thế giới có thể chia thành 84
pháp; nhưng theo chân đế, thì cả 84 pháp đều không tồn tại, mà chỉ còn lại sự
không rỗng (sunya). Ông chấp nhận thuyết Phật thân và pháp thân, mà ông giải
thích như là có bao gồm giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến và tuệ
giải thoát. Ông cho rằng chỉ có hiện tại mới thật sự tồn tại, còn quá khứ và vị
lai là không tồn tại.
11. Bộ phái Caityakas (Chế đa sơn bộ)
Bộ ph᩠này do Mahadeva thành lập vào khoảng 200 năm sau khi Phật nhập Niết
bàn. Không nên nhằm Mahadeva này với mahadeva đề xuất năm điểm dẫn tới sự phân
phái đầu tiên trong Phật giáo Ấn Độ. Ông Mahadeva sáng lập ra bộ phái
Caityavada và một Tăng sĩ thông thái, xuất gia theo Đại chúng bộ. Vì ông sống
trên một ngọn núi có bảo tháp Caitya, cho nên gọi bộ phái do ông thành lập là Caityavada.
Chính từ bộ phái Caityavada, sau này tách ra hai bộ phái nhánh là Đông Sơn trụ
bộ và Tây Sơn trụ bộ.
Các chủ thuyết của bộ phái Caityavada gồm các điểm như sau:
1) Xây dựng, trang hoàng, cúng dường các bảo tháp Phật có công đức lớn. Ngay
việc đi nhiễu xung quanh bảo tháp cũng có công đức.
2) Cúng dường hương hoa cho bảo tháp Phật cũng là một công đức lớn.
3) Nhờ cúng dường (bảo tháp Phật) mà có công đức và người ta có thể hồi
hướng công đức đó cho người thân, và bạn bè vì hạnh phúc của những người này.
Quan niệm hồi hướng công đức không thấy có trong Phật giáo nguyên thủy nhưng
rất là phổ biến trong Phật giáo Đại thừa, và có sức hấp dẫn lớn đối với hàng
Phật tử tại gia.
4) Các Đức Phật đã hoàn toàn từ bỏ tham sân, si, và có được 10 quyền năng
(bales-thập lực) mà A la hán không có.
5) Một người có Chánh kiến, vẫn có thể có sân, do đó vẫn có nguy cơ phạm tội
sát.
6) Niết bàn là một trạng thái tích cực, không còn cấu nhiễm và khuyết điểm
gì nữa.
Như chúng ta thấy trong Đại chúng bộ và các bộ phái chánh sau này tách khỏi
Đại chúng bộ, đã sớm có những tư tưởng về sau được cụ thể hóa và phát triển bởi
Phật giáo Đại thừa. Thí dụ, tư tưởng thần thánh hóa Phật và Bồ tát, xem Phật và
Bồ tát là những đấng siêu nhiên. Có thể nói tư trào này làm thỏa mãn tình cảm
tôn giáo của đại chúng Ấn Độ. Thuyết ba thân của Phật, sau này trở thành một
đặc sắc của triết học Đai thừa chính là bắt nguồn từ thuyết Báo thân
(Sambhogakaya) nảy sinh trong Đại chúng bộ. Truyền thống cúng dường bảo tháp
Phật và chư Tăng và hồi hướng công đức của mình cho người khác đã giúp nhiều
trong việc phổ thông hóa và phổ cập hóa đạo Phật trong đại chúng.
Cuốn Kathavattu có nhắc đến một số bộ phái như Rajagirika, Siddartaka,
Pubbaseliya, Aparaseliya, Uttarapatha, Vajiriya, Veluya và Hetvadina.
Bốn bộ phái đầu liệt kê trên đây có tên chung là Andhakas, đều là những bộ
phái nhánh của Đại chúng bộ hoạt động trong địa bàn vùng núi Andha phía Nam Ấn.
Không có tư liệu gì về bộ phái Vajitiya. Bộ phái Uttarapathakas hưng thịnh ở
các vùng Bắc và Tây Bắc Ấn, bao gồm cả Apganistang. Bộ phái này đề xướng thuyết
Chân như - Tathata, sau này trở thành một khái niệm quan trọng của Đại thừa
giáo. Họ cho rằng chỉ có một thừa, thay vì bốn thừa như Phật giáo chính thống
chủ trương. Theo họ, cư sĩ cũng có thể tu thành A la hán. Bộ phái Vetulyakas
cho rằng Phật và Tăng già chỉ là khái niệm trừu tượng, không có tồn tại thực
tế. Họ đề ra chủ thuyết, có thể là do ảnh hưởng của Phật giáo, rằng nam nữ tu
sĩ có thể có quan hệ tình dục, vì lòng lân mẫn đối với chúng sinh. Bộ phái
Netuvadina vốn được xem như là đồng nhất với Hữu bộ Sarvastivada, nhưng theo
cuốn Kathavatthu, đây là một bộ phái riêng biệt, bộ phái này có thuyết cho rằng
người thế tục không thể có trí tuệ nội quán để thấy rõ thực chất của sự vật.
Trên đây, đại khái là học thuyết của các bộ phái.
Minh Chi
(Ban Phật giáo VN)
(Viết theo một bài bàn về những học phái và bộ phái Phật giáo chính ở Ấn Độ
đăng trong cuốn "2.500 năm Phật giáo" do giáo sư Ấn Độ Bapat
chủ biên - bản Anh ngữ.)
* * *
Cuốn "Tự điển Sanskrit-Chinese Dictionary of Buddhist Technical
Terms" của Unrai Wogihara (Nhật Bản in lại năm 1959), ở trang 234, có bảng
danh mục 18 bộ phái, nói chung giống danh mục trong bài chúng tôi, có bổ sung
đối với những phái mới. Ngoài ra, cùng một bộ phái, lại có hai, ba sách Hán
dịch khác nhau, chúng tôi chép cả ra đây để tiện tham khảo.
1. Aryasarvastivada: Thánh thuyết nhất thiết hữu bộ.
2. Mulasarvastivada: Căn bản thuyết Nhất thiết hữu bộ.
(Mula là căn bổn. Trong bài tôi viết là Nhất thiết hữu bộ chính thống. Ý tứ
là đối với những bộ phái nhánh sau này tách ra khỏi Nhất thiết Hữu bộ, thì số
người Hữu bộ còn lại tự xem mình là chính thống. Còn, rõ rằng là
Aryasarvastivada chỉ là một tên gọi xưng thán, chứ không chỉ một bộ phái nào
riêng biệt -- Minh Chi ).
3. Kasyapiyah: Ấm trung bộ (còn gọi là Ca Diếp tỳ bộ, Bộ quang gia bộ).
4. Mahisasakas: Hóa địa bộ.
5. Dharmaguptah: Pháp tạng bộ (còn gọi là pháp hộ bộ).
6. Bahusrutiya: Đa văn bộ.
7. Tamrasaiyah: Đồng điệp bộ (không có trong bài của tôi -- Minh Chi ).
8. Vibhajgyavadinah: Phân biệt thuyết bộ (trong bản của tôi, dịch là Phân
tích bộ).
9. Aryasummatiyah: Thánh chúng lượng bộ (cũng gọi là Nhất thiết sở quý bộ,
Cung kính chư Thánh bộ).
10. Kaurukullakah: Cao câu lê kha bộ.
(Trong bản của tôi viết là Kê dẫn bộ, gồm có hai tên Sanskrit khác là
Kukkulika và Gokulika, theo bảng của Bapat -- Minh Chi).
11. Avantakah: Bất khả diệp bộ (theo Bapat, đây là tên gọi chung cho các bộ
nhánh của Đại chúng bộ hoạt động ở vùng Avanti).
12. Vatsiputriyah: Độc tử bộ hay Đâu tử bộ.
13. Mahasanghikah: Đại chúng bộ
14. Purvasailah: Đông sơn bộ
15. Amparasaila: Tây sơn bộ
16. Haimavatah: Thuyết sơn bộ.
17. Lokottaravadinah: Thuyết xuất thế bộ (cũng gọi là xuất thế gian ngữ ngôn
bộ).
18. Prajnaptivadinah: Thuyết giả bộ
19. Aryasthaviruh: Thượng tọa bộ (Thánh thượng tọa bộ).
20. Mahaviharavasinah: Đại tự trụ bộ (cũng gọi là Pháp thắng bộ)
21. Jetavaniyah: Thắng lâm bộ
22. Abhayagirivasinah: Vô úy sơn trụ bộ.
(*) Ghi chú: Xem thêm bài viết "Lý do phân phái và
tình hình phân phái trong đạo Phật", Minh Chi