Hiện
nay chúng ta chỉ mới phát hiện một phần rất nhỏ số lượng tư liệu
vừa nói và mới bước đầu nghiên cứu và tìm hiểu một số tác giả
và tác phẩm hiện đã biết tên, nhưng chưa được thực hiện một cách
có hệ thống và nghiêm túc. Mà đối với kho tàng tri thức quý báu
đó, chúng ta có trách nhiệm phải bảo tồn, khai thác và tận dụng
một cách triệt để nhằm hổ trợ cho các thế hệ hiện tại và tương
lai, hiểu rõ thêm nguồn gốc và truyền thống của văn hóa dân tộc,
nhằm đóng góp và xây dựng cho xã hội hiện đại chúng ta ngày càng
phát triển và văn minh hơn.
Vì
vậy, để thể hiện nỗ lực và bảo tồn vừa nói, chúng tôi mạnh dạn
cho công bố bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam này. Trước đây
cũng từng có một số công trình tập hợp các tư liệu Phật giáo.
Chẳng hạn là giữa thế kỷ thứ XIX, cụ thể là năm 1856, thiền sư An
Thiền đã cho ra đời bộ Đại Nam thiển uyển truyền đăng tập lục (5
quyển) bao gồm Thiền uyển tập anh làm quyển thượng, Kế đăng lục
của Như Sơn làm quyển nhất, quyển tả và quyển hữu, còn quyển hạ
do chính An Thiền viết. Đến gần giữa thế kỷ XX, thì Tổng hội Phật
giáo Bắc kỳ do các hòa thượng Quang Minh, Thanh Thạnh, Doãn Hài, Thanh
Tích cùng hợp tác với trường Viễn Đông Bác Cổ để cho ra đời bộ
Việt Nam Phật điển tùng san gồm cả thảy 8 quyển, in dập theo các
bản in cũ của các tác phẩm Phật giáo Việt Nam.
Tuy
nhiên, bộ Phật điển tùng san này mắc hai khuyết điểm lớn. Thứ
nhất, về những văn bản in dập lại, người đứng in đã không tiến
hành những nghiên cứu văn bản học đối với các tác phẩm đã in, làm
hạn chế độ tin cậy của văn bản được công bố. Khuyết điểm thứ hai
là chỉ in dập lại các văn bản cũ bằng chữ Hán hoặc chữ quốc âm,
mà vào thời điểm ra đời của bộ Phật điển tùng san, hai loại chữ
này đã không còn được phổ biến rộng rãi nữa. Cho nên, nó đã không
gây được tác động lớn trong giới học thuật. Thêm vào đó, vì
những biến động vào năm 1945, bộ Việt Nam Phật điển tùng san chỉ in tới
quyển thứ 8 thì chấm dứt và sau đó không thấy xuất hiện thêm
quyển nào nữa. Ngoài ra, do thuộc loại in dập, sự sắp xếp các tác
phẩm in trong bộ này không dựa trên tiêu chuẩn học thuật và thứ
tự tổ chức nào cả. Những điểm này càng làm hạn chế ảnh hưởng học
thuật của bộ sách ấy.
Bộ
Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam của chúng tôi ra đời, do
thế, sẽ được thực hiện theo một số phương châm sau. Thứ nhất, về
mặt tổ chức, chúng tôi sắp xếp các tác phẩm văn học Phật giáo
Việt Nam theo niên đại ra đời của các tác gia, tác phẩm từ khi
Phật giáo truyền vào nước ta cho đến thế kỷ XX.
Thứ
hai, về mặt học thuật, bộ Tổng tập này chỉ bao gồm các tác phẩm
viết bằng văn tự khối vuông, tức bao gồm các tác phẩm viết bằng
chữ Hán và chữ quốc âm. Đối với những tác gia sống trong buổi
giao thời của việc chuyển từ văn tự khối vuông qua mẫu tự Latin,
nếu tác phẩm chính của họ viết chủ yếu bằng văn tự khối vuông thì
cũng sẽ được đưa vào trong bộ Tổng tập này.
Thứ
ba, những tác phẩm in trong Tổng tập đều do các tác gia Việt Nam
thực hiện, trừ ba dịch tác gia là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Viên Văn
Chuyết Chuyết và Đại Sán Thạch Liêm. Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người Ấn
Độ, còn hai vị kia là người Trung Quốc. Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã cùng
với người học trò mình là Pháp Hiền thành lập nên dòng thiền
Pháp Vân. Cho nên, vị thiền sư này qua những dịch phẩm của mình
như Phật thuyết tượng đầu tinh xá kinh và Đại thừa phương quảng
tổng trì kinh chắc chắn là có những ảnh hưởng lớn đến việc hình thành hệ
tư tưởng thiền Pháp Vân. Vì vậy, cả hai dịch phẩm này sẽ được
chúng tôi đưa vào phần phụ lục của Tổng tập. Viên Văn Chuyết
Chuyết đã sống một thời gian dài và mất tại nước ta, có viết một
tác phẩm ngắn là Bồ đề yếu nghĩa, chúng tôi cũng cho in vào đây
để tiện việc nghiên cứu tác động tư tưởng của Viên Văn đối với
lịch sử tư tưởng Việt Nam và Phật giáo Việt Nam. Còn Đại Sán
Thạch Liêm có nhiều tác phẩm hơn và được lưu hành rộng rãi trong
giới học thuật Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là bộ Hải ngoại kỷ sự. Cho
nên, để cung cấp tư liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng cho công bố
các tác phẩm của Đại Sán trong bộ Tổng tập này.
Thứ
tư, về tác gia Đại Thừa Đăng, nếu giả thiết của chúng tôi về Đại
Thừa Đăng là Đại Thừa Quang được chấp nhận, thì ta sẽ có một
loạt các tác phẩm của thế kỷ thứ VII hiện biết dưới tên Đại Thừa
Quang. Đó là Câu xá luận ký, Đại thừa bách pháp minh môn luận
thuật ký và Duy thức chỉ nguyên. Các tác phẩm này có thể là do
Đại Thừa Đăng viết, nhưng đã lưu hành dưới tên Đại Thừa Quang.
Các tác phẩm này chúng tôi cũng sẽ đưa vào phần phụ lục của Tổng
tập để làm tư liệu nghiên cứu, trong khi chờ đợi sự thẩm định của giới
học giả trong và ngoài nước.
Thứ
năm, đối với từng tác giả, chúng tôi cho nghiên cứu niên đại,
cuộc đời và sự nghiệp của họ; còn đối với các tác phẩm, chúng tôi
cho nghiên cứu tình trạng văn bản, nội dung và niên đại ra đời
của chúng. Đồng thời cho phiên âm nếu viết bằng chữ quốc âm, dịch
nghĩa nếu viết bằng chữ Hán, ra tiếng Việt quốc ngữ.
Thứ
sáu, về mặt in ấn, ngoài việc cho in bản nghiên cứu, phiên âm
hoặc dịch nghĩa từng tác phẩm như vừa nói, chúng tôi đồng thời
cho in lại nguyên bản quốc âm hoặc chữ Hán của chúng, nhằm bảo
tồn các bản in quý, và để làm tư liệu kiểm soát cho những ai muốn
tìm hiểu xa hơn. Những nguyên bản Hán và quốc âm bị thất lạc vào
năm 1984, mà chúng tôi đã làm nghiên cứu và phiên âm hay dịch
nghĩa, chúng tôi cũng mạnh dạn cho công bố trong bộ Tổng tập,
trong khi chờ đợi tìm lại chúng và sẽ bổ sung trong tương lai, khi có
dịp tái bản.
Dự
kiến bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam sẽ giới thiệu trên
dưới 40 tác gia của Phật giáo Việt Nam, bắt đầu với Mâu Tử
(160-220?) cho đến tác gia cuối cùng có tác phẩm viết bằng chữ
Hán là thiền sư Chân Đạo Chính Thống (1900-1968). Trong số những
tác gia này, họ chủ yếu là các thiền sư. Chỉ trừ ba tác gia đời
Trần là Trần Thái Tông, Tuệ Trung Trần Quốc Tung và Trần Nhân
Tông, một tác gia đời Lê là Lê Thánh Tông, một tác gia đời Tây
Sơn là Ngô Thời Nhiệm và một tác gia thời Nguyễn là Nguyễn Du. Các tác
gia này ngoài Phật giáo ra còn viết về nhiều đề tài khác nhau,
song tự bản thân họ đã xác nhận mình là thiền sư như Trần Nhân
Tông hay Ngô Thời Nhiệm, hoặc tự nhận mình có gắn bó chặt chẽ với
Phật giáo qua thơ văn như Lê Thánh Tông và Nguyễn Du. Chúng tôi
do thế đã đưa các tác gia này vào trong bộ Tổng tập văn học Phật
giáo Việt Nam. Ngoài ra, một số tác gia khác có viết về đề tài
liên quan đến Phật giáo Việt nam, và họ có thể là những Phật tử.
Nhưng chúng tôi cũng chưa đưa vào trong bộ Tổng tập này, vì những
tác phẩm ấy chưa chiếm ưu thế trong số lượng tác phẩm của họ. Chẳng
hạn, Đặng Xuân Bản có viết Không Lộ đại thánh sự tích, song vẫn
chưa được đưa vào trong Tổng tập này do việc nó không chiếm ưu
thế trong toàn bộ tác phẩm của ông.
Dưới
đây là bản dự kiến danh sách các tác gia và tác phẩm sẽ công bố
trong bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam này. Đây mới chỉ là
một số tác gia và tác phẩm tiêu biểu mà chúng tôi đã sưu tầm được
trong những năm qua. Với Tổng tập này, chúng tôi cũng chưa đưa
vào các bài văn bia và minh trên đá và chuông đồng, trừ những bài
của các tác giả có tác phẩm được in. Những văn bia chưa được in
trong bộ Tổng tập này sẽ được tập hợp và in thành một tập riêng.
Những tác giả có viết các bài tựa và bạt khi in lại các kinh sách
Phật giáo, nhưng không có những tác phẩm khác, thì cũng sẽ được tập
hợp và in thành một tập riêng trong tương lai, trừ những bài tựa
và bạt của các tác giả có tác phẩm in trong Tổng tập này. Số tựa
bạt này tuy chưa phát hiện hết, vẫn được công bố. Nếu trong
tương lai có tìm thêm được những tác gia và tác phẩm mới, chúng
tôi sẽ công bố trong phần Bổ di của bộ Tổng tập.
1- Mâu Tử (160-220)
- Lý hoặc luận
2- Khương Tăng Hội (370-450?)
- Lục độ tập kinh
- Cựu tạp thí dụ kinh
- An ban thủ ý kinh chú giải
- Pháp kính khinh tự
3- Lý Miểu, Đạo Cao và Pháp Minh
- Sáu lá thư
4- Kim Sơn (?1300-1370)
- Thiền uyển tập anh
- Thánh đăng ngữ lục
- Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục
5- Trần Thái Tông (1208-1277)
- Khóa hư lục và một số thơ văn khác
6- Tuệ Trung Trần Quốc Tung (1230-1291)
- Thượng sĩ ngữ lục
7- Trần Nhân Tông (1258-1308)
8- Pháp Loa (1284-1330) và Huyền Quang (1254-1334)
9- Viên Thái (1400-1460)
- Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục
- Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh
- Phật thuyết báo phụ mẫu ân trọng kinh
10- Lê Thánh Tông (1442-1497)
- Thập giới cô hồn văn
- 29 lá sớ và các thơ văn khác
11- Lê Ích Mộc (1460-?)
- Bài thi trạng nguyên năm 1502
12- Pháp Tính (1470-1550)
- Ngọc âm chỉ nam giải nghĩa
- Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh
13- Thọ Tiên Diễn Khánh (1550-1610)
- Nam Hải Quan Âm Phật sự tích ca
14- Chân An Tuệ Tĩnh (?-1711)
- Nam dược thần hiệu
- Hồng nghĩa giác tý y thư
- Khóa hư lục giải nghĩa
15- Minh Châu Hương Hải (1628-1715)
- Giải Kim cang kinh
- Giải Di Đà kinh
- Giải tâm kinh ngũ chỉ
- Sự lý dung thông
- Hương Hải thiền sư ngữ lục
16- Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726)
- Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới
- Nghênh sư duyệt định khoa
- Long thư tịnh độ văn tự
- Long thư tịnh độ luận bạt hậu tự
- Thánh đăng ngữ lục hậu bạt
- Kiến tính thành Phật lục
- Tịnh độ yếu nghĩa
- Ngộ đạo nhân duyên
- Thiền tịch phú
- Thiền tông bản hạnh
- Nam Hải Quan Âm bản hạnh
- Thiên Nam ngữ lục
- Đạt Na thái tử hạnh
- Hồng mông hạnh
17- Như Trừng Lân Giác (1690-1728)
- Sa di thập giới quốc âm
- Ngũ giới quốc âm
- Phật tâm luận
- Kiến đàn giải uế nghi
- Mãn tán tạ quá nghi
18- Như Thị (1680-1740)
- Oai nghi quốc ngữ
19- Như Sơn (1670-1730?)
- Ngự chế thiền uyển kế đăng lục
20- Minh Giác Kỳ Phương (1682-1744)
- Quy ước thiền đường
- Đạo Nguyên thiền sư bi minh
- Kiết hạ an cư thị chúng
21- Quảng Trí (1700-1760?)
- Mục ngưu đồ giải nghĩa
22- Tính Quảng Điều Điều (1720-1780)
- Tam tổ thực lục
- Phật quốc ký
- Sa di ni học pháp oai nghi quốc âm
- Hiến cổ châu Phật tổ nghi
- Văn bia và một số các bài tựa
23- Pháp Chuyên (1726-1798)
- Diệu Nghiêm lão tổ thi tập
- Tam bảo biện hoặc luận
- Chiết nghi luận tái trị
- Thiện ác quy cảnh lục
- Tam bảo cố sự
- Báo ân kinh chú giải
- Địa Tạng kinh yếu giải
- Quy nguyên trực chỉ âm nghĩa
- Tỳ ni Sa di Oai nghi Cảnh sách âm chú yếu lược.
- Tỳ ni nhật dụng thiết yếu phát ẩn âm chú
- Sa di luật nghi yếu lược Tăng chú quyển thượng phát ẩn
- Quy Sơn cảnh sách chú thích y lược âm phát ẩn thiên
- Nhãn sở đáo âm thích tùy lục tạp thiên
- A Di Đà sớ sao sự nghĩa
- Tam giáo pháp số
- Tam giáo danh nghĩa
- Chư kinh sám nghi
- Hoằng giới đại học chi thư
- Chính truyền nhất chi
24- Hải Lượng Ngô Thời Nhiệm (1746-1803)
- Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh
- Hàn các anh hoa
- Kim mã hành dư . . .
25- Toàn Nhật (1757-1834)
- Hứa Sử truyện vãn
- Tam giáo nguyên lưu ký (Thích Ca Phật vãn)
- Tống vương truyện
- Lục tổ truyện diễn ca
- Bát nhã đạo quốc âm văn
- Xuất gia tối lạc tỉnh thế tu hành vãn
- Tham thiền vãn
- Hoán tỉnh trần tâm khuyến tu tịnh độ vãn
- Thiền cơ yếu ngữ vãn
- Giới hành đồng từ
- Trùng khuyến thân sơ quyến thuộc phú
- Khuyến tu hành quốc ngữ phú
- Thơ bà vãi
- Phá thô bát tống văn
- Văn đưa cây bắp
- Sa di oai nghi tăng chú giảo ngụy tự tiểu thiên.
- Thủy sám bạt
- Nhân quả kinh bạt
- Vô lượng nghĩa kinh hậu bạt
- Thơ chữ quốc âm và chữ Hán
26- Nguyễn Du (1766-1820)
- Truyện Kiều
- Văn tế thập loại chúng sinh
- Thơ chữ Hán
27- An Thiền Phúc Điền (1790-1860?)
- Thiền đường quy ước
- Đạo giáo nguyên lưu
- Tại gia tu trì cách thức
- Giới sát văn
- Phóng sanh văn
- Hóa hư lục giải nghĩa
- Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục
- Kim cang giải nghĩa
- Di Đà kinh giải nghĩa
28- Thanh Đàm (1780-1840)
- Pháp hoa giải nghĩa
- Bát nhã giải
29- Đạo Minh Phổ Tịnh (?1750-1816)
- Phú pháp kệ
30- Bạch Liên (1770-1820?)
- Du Yên Tử sơn nhật trình
- Thiếu thất phú
- Một số tựa bạt
31- Tánh Thiên Nhất Định (1784-1847)
- Phú pháp kệ
- Và một số tác phẩm khác
32- Pháp Liên (1800-1860)
- Pháp hoa quốc ngữ kinh
33- Đoàn Minh Huyên (1807-1856)
- Sấm giảng
34- Điềm Tịnh (1836-1899) và Như Như
- Hàm long sơn chí
- Dương xuân sơn chí
- Đạo trang thi tập (Như Như)
- Thiền môn tòng thuyết (Điềm Tịnh)
35- Thanh Lịch (1830-1900?)
- Lễ tụng tập yếu chư nghi
- Giới đàn tăng
- Thọ giới nghi chỉ
36- Nhất Thế Nguyên Biểu (1836-1906)
- Tỳ kheo ni giới bổn lược ký
- Và một số tác phẩm khác
37- Diệu Nghĩa (1850-1914)
- Tỳ ni Sa di oai nghi cảnh sách
- Và một số tác phẩm khác
38- Từ Phong (1864-1938)
- Quy nguyên trực chỉ giải âm
39- Tâm Tịnh (1874-1929)
- Tịnh độ nghi thức
40- Viên Thành (1879-1929)
- Lược ước tùng sao
- 30 bài thơ Nôm
41- Chơn giám Trí Hải (1876-1950)
- Mông sơn thí thực diễn âm
- Tịnh độ huyền cảnh
42- Chân Đạo Chính Thống (1900-1968)
- Thủy nguyệt tùng sao
- Và một số thơ văn
43- Tỳ Ni Đa Lưu Chi (?-594)
- Phật thuyết tượng đầu tinh xá kinh
- Phật thuyết đại thừa phương quảng tổng trì kinh.
44- Đại Thừa Đăng (620-682?)
- Câu xá luận ký
-Đại thừa bách pháp minh môn luận thuật ký
- Duy thức chỉ nguyên
45. Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644)
-Bồ đề yếu nghĩa
46- Đại Sán Thạch Liêm (1633-?)
- Hải ngoại kỷ sự
- Kim cang trực giải
- Ly lục đường thi
Vạn Hạnh, Mùa trung thu Phật lịch 2544 (2000)
Lê Mạnh Thát
Nguồn: thuvienhoasen