Chőgyam Trungpa. Sau
đó đã có thêm bản tiếng Pháp của bà Marguerite La Fuente, dịch lại từ
bản tiếng Anh. Chúng tôi đã sử dụng phần lớn bản dịch tiếng Việt của
dịch giả Nguyên Châu, cũng được dịch từ bản tiếng Anh.
Căn cứ vào nhan đề Bardo Thődol của nguyên tác, có thể gọi sách này là
Tử thư, hoặc đã từng được gọi là Luận vãng sanh. Ngoài phần chính văn
của Luận vãng sanh, chúng tôi cũng đưa vào sách này phần Dẫn nhập của
tiến sĩ W. Y. Evans Wentz, phần Giảng luận của Hòa thượng Chőgyam
Trungpa và Luận văn tâm lý học của Carl Gustav Jung, và cuối cùng là một
số suy nghĩ của người biên soạn. Với sự trình bày nhiều ý kiến khác nhau
về cùng một chủ đề, chúng tôi đặt tựa sách theo chủ đề ấy là “Người chết
đi về đâu”.
Nội dung chính của sách này quả thật đã trả lời câu hỏi ấy. Đây là những
lời nhắn gửi với người chết, những lời tụng đọc trong lúc cầu siêu sau
khi chết, nhằm có thể giúp cho người chết đạt đến một cảnh giới tốt đẹp
nhất có thể có trong điều kiện riêng của mỗi người. Tuy không chính thức
nằm trong hệ thống kinh điển Phật giáo, nhưng đây có thể xem là một cuốn
luận bao trùm nhiều quan điểm của các tông phái trong đạo Phật. Điều này
thật ra cũng không có gì khó hiểu, nếu chúng ta biết rằng các tông phái
khác nhau chẳng qua chỉ là những phương tiện để dẫn đến cùng một mục
tiêu duy nhất là giác ngộ.
Nếu phải phân loại sách này trong rừng kinh sách phong phú của đạo Phật,
thì có thể xếp vào Tịnh độ tông và Mật tông. Xếp vào Tịnh độ tông, vì nó
nhắc nhở thần thức người chết kiên trì niệm danh hiệu Phật A-di-đà để
được vãng sanh về cõi Cực Lạc của ngài. Xếp vào Mật tông vì sách này
xuất phát từ Tây Tạng và có những mô tả rất lạ lùng về cảnh tượng sau
khi chết, không hề có trong Nam tông hay Bắc tông.
Nhưng xếp loại như thế cũng rất miễn cưỡng. Vì nội dung sách này còn chủ
trương phải nhận rõ mọi cảnh tượng chẳng qua chỉ là biến hiện của chân
tâm, và chủ trương này lại chính là thuộc về Thiền tông, vốn xuất phát
từ tự lực để giác ngộ. Thiền tông được một số người xem là khác hẳn với
Tịnh độ tông, vốn dựa nhiều vào đức tin nơi tha lực. Còn nói sách này
thuộc về Mật tông cũng không đúng hẳn, vì trong sách nói rất ít về những
khẩu quyết, thần chú, mà chỉ tha thiết giảng giải cho thần thức người
chết về tâm và hoạt động của tâm thức, như Phật đã từng giảng về chân
tâm trong kinh Lăng Nghiêm. Độc giả đã đọc kinh Lăng Nghiêm hẳn sẽ thấy
đây là một hệ thống lý luận rất chặt chẽ, khoa học, chủ trương giải
thoát bằng trí huệ, không hề dựa vào những khẩu quyết, thần chú.
Ngoài ra, nội dung sách này còn gợi nhiều liên tưởng đến Duy thức tông,
đến các kinh quan trọng như Tâm kinh Bát-nhã, kinh A-di-đà... Các yếu tố
quan trọng trong Duy thức tông như ngũ uẩn, bát thức... được trình bày
hết sức sinh động chứ không còn là những yếu tố tâm lý như nhiều người
hiểu. Đọc sách này mới thấy Tâm kinh Bát-nhã đúng là “bộ kinh một trang”
nhưng đã cô đọng hết những gì chư Phật thuyết dạy. Còn những ai đã từng
tụng đọc kinh A-di-đà, đọc sách này thì niềm tin càng thêm kiên cố và sẽ
bớt phần sợ hãi khi lâm chung.
Sách này mô tả rõ ràng cảnh tượng mà tâm thức sẽ thấy sau khi chết,
những giai đoạn từ ngày này qua ngày khác, từ tuần này qua tuần khác.
Sách cũng nói về tác động của nghiệp lực và con đường dẫn đến tái sanh.
Mô tả như thế, không phải để thỏa mãn trí tò mò của người đọc, vì thật
ra sách này là để dành cho các vị Lạt-ma chủ trì lễ cầu siêu, nhằm chỉ
dẫn cho thần thức người chết biết được rằng những cảnh tượng đều chỉ là
do nơi tâm thức biến hiện ra, để họ không sanh tâm sợ hãi. Nội dung sách
thể hiện một tấm lòng từ bi, thương xót vô hạn với những chúng sanh còn
trầm luân trong cõi luân hồi.
Theo tương truyền, sách này do ngài Padmasambhava[1]
soạn. Ngài là người đã đưa đạo Phật vào Tây Tạng. Trong cuốn “Đường mây
qua xứ tuyết”, hòa thượng Govinda đã nhắc nhở nhiều đến vị đại sư này,
được dân Tây Tạng xem là hóa thân của đức Phật Thích Ca. Theo hòa thượng
Chőgyam Trungpa. Ngài Padmasambhava không những chỉ viết cuốn Bardo
Thődol này, là tập luận nhằm “Giải thoát qua lắng nghe”, ngài còn viết
một loạt các tập luận khác, trong đó có cả việc hướng dẫn “Giải thoát
bằng sáu giác quan”. Các tập luận khác hiện nay vẫn chưa được dịch sang
tiếng Anh hay tiếng Pháp. Đại sư Padmasambhva chính là người đã đẩy lùi
ảnh hưởng của giáo phái Bon, đưa đạo Phật – với cứu cánh cuối cùng là
giải thoát – vào văn minh Tây Tạng.
Cuốn Bardo Thődol này được tìm thấy trong một ngọn núi ở Tây Tạng, vốn
dành cho các vị Lạt-ma đạo cao đức trọng để tụng đọc bên người chết,
hoặc cầu siêu cho họ trong những tuần sau khi chết. Vào năm 1919, một vị
Lạt-ma người Tây Tạng là Kazi Dawa Samdup dịch sang tiếng Anh và trao
cho tiến sĩ W. Y. Evans Wentz, người Anh, và ông này đã viết thêm phần
dẫn nhập rồi xuất bản tại Anh Quốc. Đến năm 1933 thì nó được bà
Marguerite La Fuente dịch sang tiếng Pháp. Vào cuối thập niên 60 của thế
kỷ 20, hòa thượng Thích Quang Phú đã cho xuất bản cuốn Liễu sanh thoát
tử, chính là bản dịch sách này, nhưng dịch lại từ một bản dịch chữ Hán
của ông Liêu Địch Nguyên. Chúng tôi đã xem và nhận thấy bản này chỉ dịch
một phần rất ngắn của nguyên bản, có lẽ vì bản chữ Hán vốn đã không được
đầy đủ.
Hòa Thượng Chőgyam Trungpa cho rằng tập Luận vãng sanh là một cuốn sách
rất có ích, vì không chỉ dành cho người chết, mà là cả cho người sống
nữa. Vì thế, cho dù có những hạn chế nhất định về năng lực, trình độ,
nhưng chúng tôi cũng cố gắng hết sức để thực hiện công việc biên soạn
sách này. Mong sao sẽ tiếp tục có thêm các vị thiện tri thức góp phần
vào sửa đổi, bổ khuyết, để những lần tái bản thêm phần đầy đủ và chính
xác hơn.
Nội dung sách này rất sâu sắc, không giống như những cuốn sách bình
thường khác. Vì thế, đứng từ góc độ những người biên soạn, chúng tôi xin
mạn phép lưu ý mấy điều sau đây:
Sách này nói về chân tâm và hoạt động của tâm thức sau khi chết. Thể
của tâm thì vắng lặng, trống rỗng, không sanh không diệt, nhưng dụng của
tâm thì vô cùng vô tận. Ví như tất cả các giai điệu đều phát sanh từ sợi
dây đàn, nhưng bản thân dây đàn không phải là các giai điệu đó. Mỗi giai
điệu đều có hay có dở, có dài có ngắn, có bổng có trầm, có bắt đầu có
chấm dứt; nhưng dây đàn thì không hay không dở, không dài không ngắn,
không sanh không diệt. Nếu có chúng sanh nào sanh ra trong giai điệu
nhạc, sanh sau khi giai điệu nhạc bắt đầu, và chết trước khi giai điệu
nhạc chấm dứt, thì chắc chắn không bao giờ người ấy có thể hiểu được thể
tánh của dây đàn. Chúng ta, người sống cũng như kẻ chết, đều đang quay
cuồng trong các “giai điệu nhạc”, không ngờ rằng mình mang trong người
thể tánh thanh tịnh không sanh diệt, tức là Phật tánh. Hiểu như thế, thì
sách này cũng không khác kinh Lăng Nghiêm, kinh Bát Nhã, nên cũng không
chỉ dành riêng cho người chết.
Sách này nói về sáu cõi trong thế giới Ta-bà: cõi trời, cõi a-tu-la,
cõi người, cõi súc sanh, cõi ngạ quỷ và cõi địa ngục. Chúng ta ngày nay
đang ở trong cõi người, nhưng mai kia chết đi, tùy theo nghiệp thiện ác
lại có thể thác sanh vào một trong sáu cõi. Cách nghĩ này không sai,
nhưng chưa đầy đủ. Chúng ta, đành rằng với thân người, nhưng thật ra
cũng đang luân chuyển qua lại trong sáu cõi đó từng ngày, từng lúc, từng
khoảnh khắc. Nếu ta đang khởi lên một niềm an vui xuất phát từ tâm định
tĩnh, tâm xả bỏ, thì ta đang ở cõi trời. Ngược lại, nếu trong lòng đang
sôi sục hận thù thì ta đang ở trong địa ngục. Sáu cõi trong thế giới
Ta-bà không gì khác hơn là sáu trạng thái tâm lý của các loài, trong đó
có loài người. Sáu trạng thái đó tồn tại cùng lúc trong mỗi loài và tùy
theo nghiệp lực mà chúng sanh có thân thể của một loài nhất định. Sách
này chỉ rõ đặc trưng của sáu trạng thái đó và được hòa thượng Chőgyam
Trungpa lý giải thêm.
Đọc sách này, có người sẽ nảy sanh nghi vấn khi thấy trong sách vừa
nói rằng mọi cảnh tượng đều do tâm thức biến hiện, lại vừa khuyên thiết
tha quán tưởng tới Tam bảo, tới Phật A-di-đà. Như thế thì, Phật A-di-đà
cũng do tâm thức biến hiện, hay là một tha lực tồn tại độc lập? Đây là
một nghi vấn cố hữu của người học đạo, cũng chính là chỗ rẽ của Thiền
tông và Tịnh độ tông. Thiền tông dựa trên tự lực và dùng trí huệ phá
chấp để đạt tới giác ngộ, trên cơ sở “Phật không ngoài Tâm”. Tịnh độ
tông xem tha lực là tồn tại thật, nên thiết tha niệm Phật sẽ được cứu
độ. Tuy nhiên, thật ra thì cách phân biệt này vốn là giả tạo. Vì khi
niệm Phật tới mức nhất tâm bất loạn, người niệm cũng đạt tới trạng thái
định của thiền, trong ngoài không còn phân biệt. Tuy thế người đời vẫn
chia làm hai phái, và kinh sách cũng đi về hai ngã. Điều này nói lên
tính cách bao quát lạ lùng của sách này, vì cả hai quan điểm trên đều
được dung nhiếp theo chân lý Bát nhã “sắc tức thị không, không tức thị
sắc”.
Dù vậy, hẳn sẽ có nhiều người vẫn tự hỏi, thế thì thế giới và chư Phật
có thật hay không? Mỗi người có thể sẽ phải tự trả lời cho mình câu hỏi
này. Tuy nhiên, nếu thấy thế giới là có thật, địa ngục, ngạ quỷ là có
thật, thì chư Phật cũng là có thật để từ bi cứu độ; còn nếu thấy chư
Phật chỉ là biến hiện của Phật tánh, của hạt minh châu trong chân tâm
thanh tịnh mỗi người, thì ngạ quỷ, địa ngục khi ấy cũng chỉ là biến hiện
của tâm bất thiện, có gì là đáng sợ?
Đối với người chết, không có gì qui báu hơn là tình cảm chân thật
thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ
một mình. Sự tin tưởng và tình cảm chí thành là phương tiện truyền đạt
tới người chết những lời nhắn nhủ cuối cùng. Trong sách này có nói rõ,
khóc lóc than vãn chỉ làm người chết thêm bối rối. Thái độ cần thiết là
một tình cảm chân thành, một tâm thức vững chắc biết rõ rằng cái chết
chỉ là một giai đoạn trong quá trình miên viễn của đời sống. Người chết
sẽ cảm nhận được tâm kiên cố đó và cũng vững vàng theo, bớt phần sợ hãi.
Nội dung những lời nhắn nhủ chính là những lời khai thị trong sách này.
Tùy căn cơ người chết, có thể nhấn mạnh nhiều đến ý niệm “Phật trong
tâm” hay theo hướng Tịnh độ, thiết tha quán tưởng đức A-di-đà. Tổ Ấn
Quang cho rằng, trong thời Mạt pháp, đại đa số chúng sanh thích hợp với
phương pháp niệm Phật cầu vãng sanh, không mấy người đủ sức tự lực để
giải thoát. Trong trường hợp này, người thân cần nhắc nhở người sắp lâm
chung chí thành quy y Tam bảo, thiết tha quán tưởng đức A-di-đà. Người
sống cũng như người chết chỉ cần nhất tâm niệm sáu chữ “Nam mô A-di-đà
Phật”, hình dung ngài xuất hiện rõ rệt trước mắt mình, “như bóng trăng
trong nước”. Trong mọi trường hợp, người sống cần lấy tâm thành kính,
thanh tịnh để cầu siêu quán tưởng. Nếu không, thần thức dễ sanh tâm sân
hận, càng thêm đau khổ cho họ.
Cầu mong tập sách này đem lại giải thoát cho người chết, đem lại an vui
cho người thân của họ vì đã làm được điều gì đó lợi lạc cho người vừa
qua đời, đem lại chút lắng đọng cho những người khác, vốn biết mình sẽ
chết nhưng quá sợ hãi đến nỗi không dám nghĩ tới sự thật hiển nhiên này.
Nếu có ai nhờ đọc sách này được đôi phần lợi lạc, dù là ở bất cứ thế
giới nào, thì đó là phần thưởng cao quí nhất đối với những người biên
soạn.
NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN
http://rongmotamhon.net/mainpage/detail.php?ID=400&p_id=1