Lý
do nằm ở chỗ Thiền uyển tập anh ra đời sớm lắm thì cũng từ năm 1337,
tức là sau các tác giả như Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông
v.v… rất nhiều, mà phần lớn thuộc vào thế kỷ thứ XIII. Thêm vào đó, nếu
chấp nhận giả thiết của chúng tôi về tác giả Thiền uyển tập anh là thiền
sư Kim Sơn, thì niên đại càng muộn màng hơn nữa, vì Kim Sơn phải sống
cho tới lúc vua Trần Minh Tông mất vào năm 1357.
Tuy
thế, vì Thiền uyển tập anh là một tác phẩm tập hợp các tư liệu liên hệ
với giai đoạn Phật giáo từ khi Sáu lá thư ra đời cho đến lúc vua Trần
Thái Tông lên ngôi. Cho nên, về một mặt nào đó, ta có thể coi Thiền uyển
tập anh như một đại biểu cho văn học Phật giáo Việt Nam của giai đoạn
ấy. Đó là nguyên do tại sao chúng tôi đã đưa Thiền uyển tập anh vào Tổng
tập 3 này.
Trong
lần in lại đây, chúng tôi cho bổ sung một số dữ kiện mới phát hiện
được. Thứ nhất, về người đứng in bản in 1715 là thiền sư Như Trí, chúng
tôi đã thu thập được một số thông tin về vị thiền sư này cùng những
người đệ tử của ông, mà trước đây chưa có. Đó là Tiêu Sơn Thiên Tâm tự
cúng tổ khoa, trong ấy ta tìm thấy thiền sư Như Trí được kể ra như một
vị trú trì của chùa Thiên Tâm tại Tiêu Sơn.
Tên
của thiền sư Như Trí này cũng được kết liên với thiền sư Như Trúc
(1691-1735) và được coi là thầy của Như Trúc. Tiểu sử của Như Trúc khắc
trên tháp Tâm Hoa tại chùa Bút Tháp ở thôn Bút Tháp xã Thuận Thành tỉnh
Bắc Ninh cho biết Như Trúc là đệ tử của Như Trí của chùa Thiên Tâm ở
Tiêu Sơn. Sau khi Như Trí tịch, ông đã đến chùa Đông Sơn, 5 năm sau lại
đến Long Động, rồi về trụ trì chùa Bút Tháp 13 năm thì mất.
Thế
có nghĩa Như Trí mất lúc in Thiền uyển tập anh xong không lâu, bởi vì
Như Trúc chỉ sống được 45 tuổi ta và thời điểm ông bắt đầu đến chùa Đông
Sơn khoảng vào năm 1717, nếu tính thời gian ông ở Đông Sơn và Bút Tháp
cọng lại khoảng 18 năm, trừ năm ông mất là 1735. Vậy, Như Trí có thể mất
vào năm 1717.
Thứ
hai, từ việc phát hiện Như Trí từng làm trú trì tại chùa Thiên Tâm tại
Tiêu Sơn, ta mới biết thêm thông tin về bản đáy, mà An Thiền đã dùng để
in lại Thiền uyển tập anh trong thế kỷ thứ XIX, đặc biệt khi An Thiền
ghi chú trong bản in mình là đã dựa vào “Tiêu Sơn cựu bản”. Như thế,
Tiêu Sơn cựu bản chính là bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn. Và đã là bản gỗ cũ
chùa Tiêu Sơn thì rõ ràng phải do Như Trí đứng in, vì Như Trí đã từng là
trụ trì của chùa Tiêu Sơn này. Do đó, ta không còn nghi ngờ gì về nguồn
gốc bản đáy của bản in đời Nguyễn và bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn chỉ bản
nào.
Thứ
ba, đồng thời với việc phát hiện một số thông tin liên hệ đến nhân thân
và niên đại của Như Trí, qua việc nghiên cứu Hương Hải thiền sư ngữ lục
cùng với một số văn bia liên hệ, ta biết thêm những đệ tử của Như Trí
đã tham gia vào việc đứng in bản in năm 1715 như Tính Nhu và Tính Phụng
là thuộc dòng thiền của Minh Châu Hương Hải. Từ đó, dù Như Trí không
thấy được ghi vào trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, ta vẫn có thể chắc
chắn Như Trí thuộc dòng thiền này.
Thứ
tư, về những dữ kiện chứng tỏ Thiền uyển tập anh là một tác phẩm đời
Trần, chúng tôi đưa thêm sự kiện chống quân xâm lược Tống của vua Lê Đại
Hành mà cả Thiền uyển tập anh lẫn Đại Việt sử lược đều ghi nhận là xảy
ra vào năm Thiên Phúc thứ nhất (981), chứ không phải vào năm Thiên Phúc
thứ hai như Đại Việt sử ký toàn thư 1 tờ 14a1 đã ghi.
Trên
đây là một số những bổ sung mới cho bản in lại Thiền uyển tập anh lần
này. Ngoài ra, chúng tôi cũng cho sửa chữa lại những thiếu sót và sai
lầm in ấn do những lần in trước gây ra, mà chưa khắc phục được. Cụ thể
là truyện Từ Đạo Hạnh trong lần in năm 1999 đã in sót cả một đoạn nguyên
chú liên hệ với Đạo Hạnh trong Quốc sử. Từ việc in sót này, dẫn tới sự
in thiếu các chú thích số (22) và (23) có trong phần chú thích. Không
những in sót và thiếu, các bản in trước còn có in sai. Chẳng hạn, thế hệ
thứ 12 của dòng thiền Pháp Vân thì bị in sai thành thế hệ thứ 7. Những
sai sót vừa nói, hy vọng lần in này sẽ được khắc phục một phần nào.
Vạn Hạnh
Tiết hạ nguyên năm Tân Tỵ (2001)
Lê Mạnh Thát