Chương Dương, Bạch Đằng, Tây Kết lẫy lừng, đưa dân tộc ta lên đỉnh
cao của thời đại. Không những thế, vua đã mở rộng biên cương của tổ
quốc, đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp nam tiến hoành tráng của
dân tộc, mà con cháu hôm nay và mai sau mãi mãi ghi nhớ và biết ơn.
Thêm
vào đó, nền văn hóa Việt Nam thời đại vua Trần Nhân Tông đã xuất
hiện hai sự kiện có ý nghĩa hết sức trọng đại. Thứ nhất là việc dùng
tiếng Việt như một ngôn ngữ hành chánh chính thức của triều đình cùng
với tiếng Hán.
Đây
là lần đầu tiên việc sử dụng tiếng Việt đã được ghi lại bằng minh
văn. Các triều đại trước chắc chắn đã ít nhiều dùng tiếng Việt,
nhưng cho đến nay ta không có bất cứ một xác minh nào. Chính dưới
thời vua Nhân Tông, mà một sự kiện như thế đã chính thức được chép
lại. Phải nói rằng, tiếng Việt sử dụng chính thức này đã tạo điều
kiện cho sự ra đời một loạt các tác phẩm văn học tiếng Việt từ
Tiều Ẩn quốc ngữ thi tập của Chu Văn An, cho đến bản dịch Kinh Thi
của Hồ Quí Ly, cùng các bài thơ của Nguyễn Biểu, Trần Trùng Quang,
nhà sư chùa An Quốc. Đặc biệt là Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi và
bản dịch kinh Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng và Phật thuyết báo
phụ mẫu ân trọng tiếng Việt xưa nhất hiện còn, có thể là của
thiền sư Viên Thái.
Sự
kiện thứ hai là việc vua Trần Nhân Tông đã thành lập dòng thiền
Trúc Lâm Yên Tử thuần túy Việt Nam với chủ trương Cư trần lạc đạo.
Triều vua Trần Nhân Tông có những biến động chính trị, quân sự to lớn
qua việc hai lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông và việc sát
nhập hai châu Ô, Lý vào bản đồ Đại Việt, cùng những biêện động học
thuật với việc sử dụng tiếng Việt như một ngôn ngữ chính thức cùng
với tiếng Hán, thì tất nhiên phải có những biến động về tư tưởng.
Giữa những biến động này chứng tỏ có quan hệ biện chứng. Không thể có
biến động này xảy ra mà không kéo theo một biến động khác xuất hiện.
Chính
từ những biến động đó, mà dòng thiền Trúc Lâm ra đời, không những
làm nền tảng cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam mấy trăm năm tiếp
theo, mà còn tạo tiền đề cho sự nghiệp nam tiến của dân tộc trong mấy
trăm năm ấy.
Không
phải ngẫu nhiên vị sáng tổ của phái Thảo Đường là vua Lý Thánh
Tông mở đầu cho sự nghiệp Nam tiến vào năm 1069. Rồi vua Trần Nhân
Tông đặt nền móng cho sự nghiệp đó với việc thành lập hai châu Thuận
và Hóa. Và gần đúng 400 năm sau, Bồ tát giới Hưng Long Nguyễn Phúc
Chu đã chính thức sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh đi thiết lập thành phố
Sài Gòn và gầy dựng Nam Bộ thành một bộ phận không thể phân ly của
tổ quốc Việt Nam. Phải có một lý luận đằng sau những người con ưu tú
này của dân tộc. Vì Cư trần lạc đạo phú của vua Trần Nhân Tông được
bảo tồn qua các truyền bản lưu giữ trong các tự viện của dòng thiền
Trúc Lâm, lần đầu tiên ta có một văn bản để nghiên cứu cơ sở lý
luận vừa nói.
Sự
nghiệp văn trị và võ công của vua Trần Nhân Tông vĩ đại như thế.
Trải qua 700 năm lịch sử, sự nghiệp này đã được nhiều lần đánh giá và
ca ngợi, từ những người đồng thời như Trương Hán Siêu, Trần Minh
Tông, Phạm Sư Mạnh cho đến những người về sau như Nguyễn Trãi, Ngô Sỹ
Liên, Lê Quí Đôn, Ngô Thì Nhiệm v.v Và sự nghiệp văn học và tác phẩm
của vua Trần Nhân Tông cũng đã từng bước được sưu tập như Việt âm
thi tập, Toàn Việt thi lục, Tam tổ thực lục,... Nhưng cho đến nay,
trong công tác sưu tập này vẫn còn có những thiếu sót. Chẳng hạn toàn
bộ các văn thư ngoại giao do vua Trần Nhân Tông viết cho vua quan
nhà Nguyên vẫn chưa được thu thập và công bố đầy đủ, tối thiểu là
trong giới hạn của những nguồn tư liệu hiện tại bảo lưu và cho
phép.
Chúng
tôi, do thế, đề nghị giới thiệu lại sự nghiệp võ công và văn trị
cùng những tác phẩm văn học, mà vua Trần Nhân Tông đã để lại cho
chúng ta đến ngày hôm nay. Toàn tập Trần Nhân Tông ra đời là một thể
hiện nỗ lực ấy.
Toàn
tập này được chia làm hai phần. Phần đầu giới thiệu tổng quát sự
nghiệp võ công và văn trị qua 9 chương nghiên cứu từng vấn đề, từ
tuổi trẻ cho đến vai trò nhà vua trong hai cuộc chiến tranh 1285 và
1288, cũng như trong việc mở mang bờ cõi, sử dụng tiếng Việt và thành
lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Phần hai công bố các tác phẩm văn
học từ thơ phú, văn xuôi, bài giảng, ngữ lục cho đến các văn thư
ngoại giao, nhằm cung cấp tư liệu cho những ai quan tâm nghiên cứu
nhiều mặt về lịch sử Việt Nam nói chung và bản thân vua Trần Nhân
Tông nói riêng.
Cuối
cùng, để cung cấp tài liệu tham khảo và kiểm soát, chúng tôi cho
in lại toàn bộ các văn bản chữ Hán và Quốc âm, mà chúng tôi sử dụng
để phiên âm hay dịch nghĩa. Trong trường hợp có nhiều bản khác nhau,
chúng tôi chọn những bản xưa nhất hiện có làm bản đáy và cho in, còn
các bản khác thì được dùng làm khảo dị.
Toàn
tập này về cơ bản hoàn thành vào năm 1977, nhưng đến nay mới được
công bố trọn vẹn. Tuy vậy, chỉ có một điều đáng tiếc là trong số các
tác phẩm của vua Trần Nhân Tông do chúng tôi sưu tầm được trong
những năm 1974-1975 và trước đó, thì trong lần công bố này thiếu mất
bản dịch chú Lăng Nghiêm do Bồ Đề Thất Lỡ (Bodhiri) truyền đạt, Bảo
Sát bút thọ và vua Trần Nhân Tông nhuận sắc. Đây có thể nói là một
trong những bản dịch cuối cùng từ tiếng Phạn ra tiếng Hán tại nước ta
và của Viễn Đông và có sự tham gia của nhà vua.
Bản chúng tôi tìm thấy tại chùa Từ Quang tỉnh Phú Yên là một bản in thời Cảnh Hưng không còn nguyên vẹn lắm.
Những
trang đầu có lời tựa đã bị mất, chỉ còn tờ cuối. Còn năm đệ chú
Lăng Nghiêm thì bốn đệ đầu còn nguyên, đệ cuối cùng bị rách và chỉ
còn đoạn phiến. Về phần Thập chú cũng bị mất. Sau mỗi cụm từ Phạn in
cỡ chữ lớn có hai hàng chữ Hán dịch nghĩa in cỡ chữ nhỏ. Rất tiếc bản
này đã bị thất lạc trong năm 1984. Chúng tôi hy vọng những ai
đang giữ bản in ấy, vì lợi ích chung của nền học thuật nước nhà, xin
công bố, để làm tư liệu nghiên cứu cho việc tìm hiểu không những
chính các đóng góp của vua Trần Nhân Tông đối với dân tộc và Phật
giáo, mà còn lịch sử văn hóa và tư tưởng Việt Nam nói chung.
Vạn Hạnh
Tiết trùng dương năm Kỷ Mão
Lê Mạnh Thát
Nguồn: quangduc.com