Nhà văn Nguyên Ngọc. Ảnh: LĐ
Ông Nguyên Ngọc trả lời rất rốt ráo câu hỏi này: “Muốn hiểu vì sao có tình trạng chợ chiều hôm nay cũng không có cách gì khác hơn là nhìn lại thực chất nội lực của văn học. Văn học thời Đổi mới đã bứt phá ra được vì nội lực của nó qua dồn nén lâu dài đã đến lúc trở nên mạnh hơn những lực lượng kìm hãm. Nhưng trong cuộc bứt phá đó nó đã “tiêu xài” hết nội lực có được, như chiếc xe cạn xăng, sức đuối dần đi, đến khi dừng lại hẳn như hiện nay.
Trong sự dừng lại hiện nay, có nguyên nhân của sự cản trở không? Có chứ. Nhưng thử nghĩ xem bao giờ mà không có sự cản trở. Các lực lượng kìm hãm thì thời nào, chỗ nào cũng không thiếu. Vấn đề là anh có đủ sức phá nó ra không? Vấn đề hiện nay là tự anh đã yếu đi, do đã tiêu hết nội lực có thật của mình. Tôi cho rằng những hiện tượng như Nguyễn Huy Thiệp đã dừng lại, Bảo Ninh thì hầu như không còn viết gì đáng chú ý nữa… đều có thể nói là tất yếu. Họ đã “xài” hết cái “trời cho”, tức tài năng bẩm sinh cộng với “vốn sống”, tức sự trải nghiệm của họ. Họ đã trở nên hụt hẫng.
Một nhà văn viết bằng gì? Theo tôi, có ba cái chính: tài năng “trời cho”, sự trải nghiệm hay “vốn sống”, và cái thứ ba là nền tảng văn hoá dân tộc và nhân loại mà anh ta có được, anh ta “đứng” trên đó để tiếp tục đi tới.
Lớp người trẻ cầm bút ở Việt Nam hiện nay thiếu hụt hơn cả chính là cái thứ ba này. Thử nhìn lại cha ông chúng ta, những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương… mà xem. Khi họ cầm bút thì đằng sau lưng họ là cả một cái vốn văn hoá khổng lồ của phương Đông. Nền giáo dục thời đó đã cho phép họ chiếm lĩnh gần như toàn bộ những đỉnh cao nhất của văn hoá nhân loại (hiểu ở nghĩa đối với chúng ta thời ấy chỉ bao gồm Trung Hoa và Ấn Độ, với Nho giáo và Phật giáo).
Chính trên cái nền tảng vĩ đại đó mà họ phát huy tài năng trời cho và vốn trải nghiệm sâu sắc của họ, tạo nên những tác phẩm có tầm mức kinh điển của thời đại họ. Qua đến thế hệ nhà văn thời Pháp thuộc thì nền tảng của họ là truyền thống văn hoá cũ cộng với tri thức mới do nền Tây học mang lại. Họ cũng có những đóng góp tầm cỡ, như Thơ mới, tiểu thuyết… Sự hụt hẫng của lớp người cầm bút hiện nay ở Việt Nam chính bởi toàn bộ cái vốn văn hoá dân tộc và nhân loại mà các thế hệ trước có thì đến nay họ không còn có được nữa.
Ở đây đương nhiên có vấn đề của nền giáo dục trong nước suốt nhiều chục năm qua. Đó là thời gian có thể nói là chúng ta gần như không có đại học thực sự. Anh Hoàng Ngọc Hiến gọi rất đúng đại học trong nước là trường “phổ thông cấp bốn”. Chỉ xin lấy một ví dụ: trong nền giáo dục ở mọi cấp, gần như hoàn toàn không dạy triết học. Tất nhiên có môn gọi là “triết học Mác – Lênin”, nhưng môn này không được giảng như triết học mà chỉ là những khoá huấn luyện chính trị rất sơ đẳng. Thế cho nên những người cầm bút thuộc thế hệ trẻ trong nước hiện nay có thể nói là hoàn toàn không hề được tiếp cận với di sản triết học nhân loại, cả phương Đông lẫn phương Tây. Thật khó mà tưởng tượng được một nhà văn mà không có chút vốn triết học nào!”
Ông Nguyên Ngọc đã từ lĩnh vực văn chương đi thẳng vào vấn đề nền tảng của người học hiện nay, khi mà cái cần nhất thì chúng ta không học (và không được dạy), cho nên người làm nghề gì cũng thế, chứ không chỉ nghề viết, không có nền tảng, muốn tiến thêm sẽ hụt hẫng. Lỗ hổng trong nền tảng quá lớn phải chăng là nguyên nhân mà chỉ số trí tuệ Việt Nam (bậc 76) vừa rồi tụt hạng thấp nhất trong các năm, thua Thái Lan (bậc 57) và Malaysia (64,8).
Phần lớn công chúng cho rằng, để khắc phục tình trạng này, chỉ có nhờ vào hệ thống giáo dục thay đổi thực sự. Chúng ta cứ hy vọng vào điều này đi, dù rằng nếu có chỉ số hy vọng, thì có lẽ Việt Nam sẽ xếp thứ nhất, thứ nhì chăng!
Dân tộc Việt không thiếu danh nhân đáng tự hào. Như Trần Nhân Tông, một vì vua cách đây 700 năm một lần nữa được vinh danh khắp thế giới khi đại học Harvard (Mỹ) thành lập viện Trần Nhân Tông, tổ chức giải thưởng Trần Nhân Tông về Hoà giải hàng năm dành trao cho những con người bằng hành động và ảnh hưởng của mình có đóng góp nổi bật cho sự nghiệp hoà giải và yêu thương nhân loại… Điều gì đã khiến những nhân vật tài danh xuất phát từ ngôi trường đại học danh tiếng, nơi đào tạo hàng vạn thế hệ nhân tài cho thế giới lựa chọn Trần Nhân Tông? Điều gì nếu không phải chính là trí tuệ toả sáng của ông?
Được nuôi dạy kỹ từ lúc còn trẻ, Trần Nhân Tông “khi lớn, ngài học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không nắm được sâu sắc. Như thế vua Trần Nhân Tông đã thừa hưởng một nền giáo dục hết sức rộng rãi, với một tinh thần cởi mở, kết hợp kiến thức khoa học với văn chương, quân sự với âm nhạc. Đây là truyền thống giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, mà ta đã thấy xuất hiện từ thời Mâu Tử và Khương Tăng Hội” (trích Toàn tập Trần Nhân Tông).
Từ thế kỷ 13, nước Việt đã có truyền thống giáo dục như thế, sao đến thế kỷ 21, lại sa sút trầm trọng – câu hỏi này ai trả lời được? Nếu không, ta đành phải tự trả lời bằng cách tự thân vận động thôi. Như câu Phật hoàng Trần Nhân Tông tâm đắc nhất trong những lần tranh luận cùng với Tuệ Trung Thượng Sĩ, thầy của ngài, rằng: “Quan sát lại chính mình, đó là bổn phận, không do người khác làm được”.
Mỗi ngày thấy được mình cần phải dấn thêm một bước, đó là cái tự học của người ham học, cũng là cái cầu học của những người có tầm nhìn cho một đất nước thật sự vững mạnh bằng nội lực, chứ không phải bằng việc tìm mọi cách để bán tài nguyên.
Viện Trần Nhân Tông (Trần Nhân Tông Academy) được thành lập bởi một nhóm nhà nghiên cứu tại trường đại học Harvard, do giáo sư Thomas Patterson làm chủ tịch.
Mục đích dài hạn mà viện đề ra gồm: tổ chức nghiên cứu về Trần Nhân Tông theo chuẩn mực quốc tế, đồng thời xuất bản các kết quả nghiên cứu, các ấn phẩm về Trần Nhân Tông bằng nhiều loại hình; thúc đẩy, ứng dụng những tư tưởng nhân ái, giàu trí tuệ của Trần Nhân Tông vào cuộc sống; quảng bá những giá trị tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của Trần Nhân Tông trên toàn thế giới.
Ngày 22.9, viện đã trao giải thưởng Trần Nhân Tông về Hoà giải lần đầu cho Tổng thống Myanmar U Thein Sein và chủ tịch đảng đối lập Aung San Suu Kyi. |
Theo SGTT