Ngưỡng bạch Giác Linh Hòa Thượng Ân Sư,
Phương Đông chợt tắt một vì sao
Nghe tin còn ngỡ giấc chiêm bao
Người về xứ Phật, duyên trần mãn
Thổn thức lòng con nỗi nghẹn ngào…
Suốt
hai tuần nay, trong quá trình đào sâu nghiên cứu về đề tài so sánh khía
cạnh đạo đức trong các tôn giáo cho chương trình Tiến Sỹ Tôn Giáo Học
Hoa Kỳ, con lục tìm đọc lại những bài viết của Hòa Thượng về Đạo Đức Học
Phật Giáo, Việt Ngữ và Anh Ngữ. Tản bộ xung quanh University of the
West, nơi có nhiều chư Tăng Ni các quốc gia tham học, con nghĩ đến Đại
Học Vạn Hạnh trong tương lai có thể phát triển, vươn đến tầm vóc quốc tế
để nhiều thành phần cư sỹ và Tăng Ni Quốc Tế tham học.
Cũng như đêm nay tại Thiền Viện Chân Không, Honolulu, Hawaii, chúng con
vừa nhắc về HT. Thích Đạt Đạo, Phó Viện Trưởng Đại Học Vạn Hạnh có thăm
viếng đến nơi đây, lòng con lại hướng về Đại Học Vạn Hạnh và Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam.
Trong niềm suy tưởng đó, con chợt nhận được tin tức trong các diễn đàn báo tin Hòa Thượng vừa viên tịch tại Việt Nam.
Vậy
là: điều gì đến cuối cùng cũng phải đến và trong cuộc đời con, đêm nay
tiếp tục một đêm nữa bàng hoàng thổn thức, tiếc thương đưa tiễn một bậc
Cao Tăng Ân Sư ra đi.
Con
có duyên phước xuất gia tu học tại Tu Viện Nguyên Thiều, đó là môi
trường giáo dục Tu sỹ, đào tạo Tăng tài. Con vừa theo học Trung Cấp Phật
Học Bình Định vài tháng thì Đại Học Vạn Hạnh chiêu sinh khóa III
(1993-1997).
Nhận
thấy con tu học có triển vọng trong tương lai nên có người giới thiệu
con nên thi vào học khóa III này (với 3 môn thi : Giáo lý Phật Pháp,
Việt Văn, Anh Văn). Sư Phụ con cùng với Ban Giám Hiệu Phật Học Viện
Nguyên Thiều bàn tính và đồng ý cho con đi tham dự cuộc thi tuyển này:
nếu đậu thì con vào học Đại Học Vạn Hạnh, nếu không đậu thì con trở về
Nguyên Thiều tiếp tục chương trình Trung Cấp.
Con
lúc ấy chỉ là một chú Sa Di, học Trung Cấp Phật Học được nửa năm, học
anh Văn được vài tháng đi thi tuyển “đọ sức” với nhiều Tu Sỹ, Thượng
Tọa, Đại Đức thâm niên, trải qua nhiều trường lớp Phật học Sơ – Trung
Cấp, có người đã và hiện học thêm Đại Học bên ngoài và học Anh Văn lâu
năm, thế mà con thi đậu.
Dù
không đậu cao nhưng miễn đậu là quý hóa lắm rồi, vì khóa đó số lượng
thi rớt nhiều hơn thi đậu, trong khi phần con thì chưa chuẩn bị kỹ.
Hai
bài phát biểu của Hòa Thượng trong dịp thi tuyển và khai giảng Khóa III
Đại Học Vạn Hạnh có ấn tượng và ảnh hưởng rất lớn trong quá trình tu
học của con. Hòa Thượng xuất hiện với phong thái thanh thoát như một vị
Bụt, một Tiên Ông, lông mày bạc trắng, nước da trắng trẻo, hồng hào,
đường đường Tăng tướng thật là hy hữu.
Hòa
Thượng khuyến tấn thế hệ Tăng Ni trẻ hãy cần mẫn tu học để trưởng
thành, đầy đủ giới định tuệ, sau này tung cánh muôn phương làm tốt Đạo,
đẹp Đời.
Mỗi
tuần một lần, Hòa Thượng đến lớp giảng Kinh Trung Bộ tuy rằng Hòa
Thượng đa đoan Phật sự và không nệ hà tuổi hạc cao, sức lực mỏi mòn,
nhịp đi rung rung trong cánh tay đỡ nâng của người thị giả.
Giáo dục là sứ mệng thiêng liêng, là niềm hạnh phúc của Người. Tuy
không đứng lớp và giảng nói nhiều nhưng Hòa Thượng đã dạy được rất nhiều
từ hiện thân làm tấm gương sáng, qua Thân-Khẩu-ý giáo.
Khắc
sâu Đạo từ của Hòa Thượng con dùi mài tu học tinh tiến, không giờ phút
buông lơi, hết giờ trong lớp, đi nghiên cứu Kinh Sách theo các chủ đề
tại thư viện Vạn Hạnh, Vĩnh Nghiêm, Xá Lợi, thư viện quốc gia,…hết Tiếng
Anh đến tiếng Hoa.
Con
là người từ miền quê lúc ấy mới vào thành phố gặp đủ điều kiện nên say
sưa học hành, không còn thời gian cho việc tiếp khách, trao đổi, chuyện
trò,…
Những
nỗ lực của con cũng đã được tưởng thưởng xứng đáng : con lãnh giải
thưởng đặc biệt - đồng hồ treo tường, phát biểu cảm tưởng trong ngày
khai giảng và làm lớp trưởng khi được xếp hạng đồng thủ khoa trong thi
tuyển vào Cử Nhân Anh Ngữ, Đại Học Tổng Hợp mở rộng, con bước lên bục
lãnh phần thưởng năm thứ 2 và là 1 trong 4 Tăng sinh đoạt hạng A năm thứ
4, Đại Học Vạn Hạnh.
Con có 2 bài thơ đánh dấu giai đoạn tu học này, đó là : Dẫn lối, khi nhập học Vạn Hạnh và Dưới cội Bồ Đề, nỗi niềm cảm xúc dâng lên Hòa Thượng trong ngày ra trường xa cách Người và Đại Học Vạn Hạnh.
Tốt
nghiệp Đại Học Vạn Hạnh, năm 1997, chúng con được Hòa Thượng ký giấy
giới thiệu đến Đại Học Delhi để tiếp tục chương trình Cao Học Phật Giáo,
chúng con lại được theo dấu chân xưa trên đường về Xứ Phật.
Đến
năm 1999, bốn chúng con, đại diện 3 Tông phái Việt nam (Nam Truyền, Bắc
Truyền, Khất Sỹ), lại được diễm phúc Hòa Thượng ký một giấy giới thiệu
nữa đến tham học chương trình Tiến sỹ tại Đại Học Nalanda.
Vào ngày phỏng vấn nhập trường Nalanda tháng 11/1999 một câu hỏi trong Hội Đồng Giám Khảo đưa ra là : “Do you know who Thich Minh Chau is?”.
Ngày
mỗi ngày tại Đại Học Nalanda, chúng con liên tưởng đến nhiều năm tháng
Người lưu bóng tại đây. Những dấu ấn của Người tại Ấn Độ khiến mọi người
vì nể Tu Sỹ Việt Nam, đậu thủ khoa cao học Pali và Phật Học, là người
Việt nam đầu tiên đậu thủ khoa khoá Tiến Sỹ tại Ấn Độ và chính tổng
thống Ấn Độ đến trao bằng và phần thưởng đến Hòa Thượng tại Patna, Bihar
vào ngày 16/12/1958.
Luận
án Tiến sỹ của Hòa Thượng với 5 ngôn ngữ : Việt, Hán, Pali, Sanskrit,
Pháp, dày hơn 1000 trang tựa đề “So sánh Trung A Hàm Hán Tạng và Trung
Bộ Kinh Pali Tạng” là đúc kết của công phu tu học nghiên cứu sâu sắc
hiện đang được trân trọng giới thiệu tại các thư viện và các nhà sách
tại Ấn Độ .
Đó
cũng là niềm hãnh diện và động lực cho thế hệ học trò của Hòa Thượng để
phấn đấu tu học có kết quả khả quan hải ngoại, chứ lẽ nào hào quang của
Ngài sáng chói như vậy mà học trò của Ngài không bằng người ta?
Nalanda
có nghĩa là truyền thừa trí tuệ, nơi làng của 2 vị đại đệ tử Đức Phật
là Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Chúng con đến Linh Thứu Sơn,
đến Hương Thất của Đức Phật, của Ngài Ca Diếp, A Nan trong đêm tĩnh
mịch, lắng nghe khí thiêng, âm hưởng từ ngàn xưa vọng về và biết tại
tảng đá này, Hòa Thượng đã có những đêm Thiền Toạ để tưởng niệm ân thâm
Phật Tổ, quán sát lý nhân duyên, con đường giáo dục cho Phật Giáo Việt
Nam, cầu nguyện cho thế giới hòa bình, nhơn sinh an lạc.
Đường
xưa, mây trắng, mạng mạch Phật Pháp Tổ Tổ tương truyền, chúng con dốc
sức đi theo tiếng gọi thiêng liêng và bước chân của Ngài.
Xưa
kia, Ngài Huyền Trang cũng đã từng học, biện tài số một, giảng dạy tại
Đại Học Nalanda và mang kinh sách về dịch thuật tại Trung Hoa đời Đường,
mở ra thời kỳ vàng son Phật Pháp.
Tương tự như vậy, Hòa Thượng đứng đầu về học vấn tại đây, mang kinh sách Pali về dịch ra Tạng Kinh Tiếng Việt.
Trong
suốt cuộc đời mình, Ngài là con người làm nên lịch sử, vẽ ra nhiều nét
chấm phá, khai sáng, đặt dấu ấn cho biết bao nhiêu Đạo nghiệp quan trọng
:
- Phát động phong trào thanh niên tham gia học Phật.
- Thư ký Hội An Nam Phật Học.
- Lập nên đoàn Phật học đức dục và tạo mô hình tiền đề cho gia đình Phật tử Việt Nam.
-
Người Việt nam đầu tiên mở đường du học Ấn Độ, đậu bằng Tiến Sỹ, thủ
khoa, đích thân Tổng Thống Ấn Độ đến trao bằng tốt nghiệp và phần
thưởng.
-
Hiệu Trưởng đầu tiên và nhiều niên khóa nhất tại Đại Học Phật Giáo
Việt Nam, Đại Học Vạn Hạnh, tổ chức hệ thống trường Bồ Đề Phật Giáo, đưa
ra đường hướng giáo dục toàn vẹn : hạnh đức, tâm đức, tuệ đức, phát
triển thăng bằng toàn diện thể lực, tình cảm, tâm tư, tri thức, trí tuệ,
nhân cách,… đào tạo nhiều hiền tài, nguyên khí quốc gia.
- Tổ chức các đặc san có tầm cỡ và giá trị của Phật Giáo : Viên Âm, Tư Tưởng…
-
Tham dự và đóng vai trò tích cực nhiều diễn đàn, hội thảo quốc tế tại
Nga, Lào, Thái Lan, Mông Cổ, Úc, Ý, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ,…,
Ngài giữ chức vị Phó Chủ Tịch Phật ... giáo Châu Á vì Hòa bình ( ABCP),
Vice President of the ABCP (Asian Buddhist Conference for Peace), chủ
trì tổ chức các cuộc hội thảo quốc tế tại Việt nam.
-
Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam với nhiều công trình tổ
chức hội thảo, sáng tác, dịch thuật, đặc biệt là dịch kinh tạng Nikaya,
Pali Tạng ra tiếng Việt. Hòa Thượng có nhiều sáng tạo trong việc lựa
chọn từ tương đương và sáng tạo ra thuật ngữ mới làm giàu cho từ điển
Tiếng Việt.
-
Chủ trương và làm gương trong việc hài hòa các Tông Phái sinh hoạt
chung trong ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam. Hòa Thượng xuất thân và thọ
giới từ Chùa Tường Vân, Bắc Truyền nhưng lại đắp y Nam Truyền và chủ trì
trong việc dịch thuật tiếng Pali. Chính 2 cuốn sách “So sánh Trung A Hàm Hán Tạng và Trung Bộ Kinh Pali Tạng” và “ĐẠI THỪA VÀ SỰ LIÊN HỆ. VỚI TIỂU THỪA” Nguyên tác: Nalinaksha Dutt Dịch giả: HT Thích Minh Châu thể hiện quan điểm này của Hòa Thượng.
Con
vẫn biết có nhiều người, nhiều thành phần chống đối, chê bai, chỉ trích
việc làm của Hòa Thượng, nhưng với chúng con, học trò của Người từ Đại
Học Vạn Hạnh luôn tôn kính, trân trọng tri ân Người theo truyền thống
đạo nghĩa Việt Nam : “một chữ cũng Thầy, nữa chữ cũng Thầy”.
Thật
là bất công khi đổ hết trách nhiệm về việc tan rã hệ thống cơ sở trường
Bồ Đề, cơ sở tầm vóc Đại Học Vạn Hạnh, “thống nhất Phật Giáo” năm 1981
áp đặt đổ hết lên đôi vai của Người. Đó là cộng nghiệp của Việt Nam
trong giai đoạn lịch sử hiện đại. Trong Đạo Phật có tương quan, tương
duyên, tương tác, tương tồn, cộng sinh, cộng trụ, thử hình dung nếu tu
sỹ nào cũng đi nước ngoài hết, hoặc đóng cửa bất hợp tác với nhà nước,
không hoạt động, vậy thì mất mát, thiệt thòi cho Phật Giáo Việt Nam,
khoảng trống, đứng khựng đó ai quan tâm, ai chịu trách nhiệm.
Trong cuộc sống có nhiều vai trò hỗ tương nhau, người đóng vai trò này,
người đóng vai trò khác. Bây giờ, đại tạng kinh Việt Nam mà chúng ta
đọc, mà chúng ta nghe, những nhân sự kế thừa đắc lực của Phật Giáo Việt
Nam tại Hải Ngoại, kể cả Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải
Ngoại tại Hoa Kỳ, Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo, cũng được xuất thân từ các
Đại Học Phật Giáo trong nước, ăn trái nhớ kẻ trồng cây, không phải là
mọi người, mọi tổ chức Phật Giáo trong chúng ta đang thừa hưởng ân đức
của Hòa Thượng hay sao?
Thật
ra, với tấm lòng của người học trò, trong giờ phút này con bộc bạch
diễn bày vậy thôi chứ không có ngôn ngữ văn tự nào có thể diễn tả hết ân
đức cao cả của Người.
Người
vượt ra ngoài vòng đối đãi thế gian phải trái khen chê. Họ giỏi đàm
tiếu khen chê nhưng họ làm được bao nhiêu so với công trình cho Đạo Pháp
và chúng sanh vòi vọi của Người cho dù Người ở trong hoàn cảnh đầy khó
khăn, hạn chế? Người sống đúng với tinh thần :
“Thị phi niệm trục triêu hoa lạc, Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.”
Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm
Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm
Yêu ghét chẳng bận lòng . Duỗi thẳng hai chân ngủ
Có một lời dạy của Đức Phật mà Ngài thường nhắc như thổ lộ tâm sự và quan điểm sống của Người : “Như Lai không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Như Lai”
Ngài
là vị Bồ Tát hiện thân trong cuộc đời vốn đầy phiền não, nhiễm ô nhưng
Ngài như sen vàng ngát hương, thoát vòng tục lụy. Thân phụ của Người là
Tiến sỹ Đinh Văn Chấp, dòng họ của Người có năm đời Tiến Sỹ, Ngài đã làm
sáng rỡ dòng họ Đinh, xứ sở Nghệ An vốn có nhiều anh tài kiệt xuất như
Nguyễn Du, Nguyễn Xí,…Người đã kế thừa tài sản của Như Lai và môn phong
Tường Vân, “danh sư xuất cao đồ”, “con công không giống lông cũng giống
cánh”, Ngài là học trò lỗi lạc của Cố Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh
Khiết, Tường Vân là mây lành rủ bóng mát đến những ai có duyên nương
tựa.
Lần
nào về Việt Nam, con cũng đến thăm Đại Học Vạn Hạnh và cố gắng chiêm
ngưỡng tôn nhan của Người, nguyện cầu cho Người như đại thọ Bồ Đề trụ
thế lâu hơn nữa để làm điểm tựa, che mát chúng con. Vẫn biết sự thế vô
thường có sanh ắt có tử, có hợp ắt có tan nhưng lòng con thắt nghẹn khi
phải ở phương xa vọng hướng quê nhà bái biệt một ân Sư, một bậc Thầy lỗi
lạc, một nhà giáo dục tận tuỵ, một Cao Tăng Thạc Đức trọn đời hi hiến
cho Đạo Pháp, dân tộc, chúng sanh, theo dờng lịch sử thăng trầm vinh
nhục và cuộc thế đổi thay, đầy kham nhẫn, can trường, tùy duyên bất biến
phụng sự, làm tốt Đạo, đẹp Đời.
Rồi
mai này về thăm lại Vạn Hạnh, con chỉ còn biết cúi lễ trước hương án
của Người, thân tứ đại của Người chôn vào lòng đất sẽ trở thành nhựa
sống cho những chồi mới thêm xanh. Bóng Người đã khuất nhưng không mất.
Nụ cười thanh thoát từ ái bao dung của Người vẫn phảng phất đâu đây.
Lịch sử Việt Nam, Văn hóa giáo dục việt Nam, lương tri thế giới, những
người hướng đến cuộc sống hòa bình, thân thiện, hạnh phúc, thánh thiện
ghi khắc tên Người bằng nét son chói lọi muôn thuở không phai mờ.
Người
đã ra đi nhưng Người còn ở lại. Từng kẽ lá, ghế đá, kệ sách, sỏi đá Học
Đường Vạn Hạnh vẫn xào xạc khẽ nhắc tên Người, bóng Người lồng lộng,
tâm bao thái hư, hình bóng Người vẫn mãi ở trong trái tim của chúng con.
Người quả là hạt Minh Châu quý hiếm, chói lọi trong Lịch sử Phật giáo
thế giới hiện đại, với tâm trí, tài đức viên dung.
Thật
khó tìm lại được một bậc Thầy cao cả, ngời sáng như Người. Con sẽ trồng
nhiều Bồ Đề và nhặt lá Bồ Đề đan kết tưởng niệm đến Người.
Trong
giờ phút thiêng liêng tiễn biệt này, từ nửa vòng Trái Đất, thắp nén tâm
hương xin đảnh lễ Giác Linh Người. 95 năm trụ thế, hơn 67 hạ lạp, Hòa
Thượng thi tác biết bao nhiêu Phật sự lợi lạc hà sa, chúng con đâu dám
chờ đợi đòi hỏi gì nơi Người nhiều hơn thế nữa.
Chúng
con nguyện sẽ tu học và phụng sự chúng sanh, đặc biệt là về Giáo dục
Phật giáo, hoằng pháp độ sanh, kế thừa gia tài Pháp bảo, vì hòa bình và
hạnh phúc cho nhân loại,… theo gương hạnh của Người.
Những lời dạy bảo của Người vẫn còn văng vẳng bên tai, hướng đạo chúng con trong suốt hành trình dài trở về bến giác : “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”, “hãy lấy Pháp và Luật làm Thầy”, “hãy tinh tiến lên để giải thoát”, hãy đi khắp mọi nơi đem lại hạnh phúc và an lạc cho số đông, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người
Nguyện
cầu Giác Linh Hòa Thượng vãng sanh Cực Lạc, Cửu Phẩm Hoa Khai, thượng
phẩm thượng sanh, hồi nhập Ta Bà từ bi hoằng khai phổ độ nhất thiết
chúng sanh.
Nam
Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tam Thế, Tường Vân, Vạn Hạnh Đường
Thượng, Húy thượng Tâm hạ Trí, Tự Minh châu, Hiệu Viên Dung Trưởng Lão
Hòa Thượng Ân Sư Liên Tòa Thùy Từ Chứng Giám.
Tăng Sinh Khóa III, Đại Học Vạn Hạnh
Khể Thủ
TK. Thích Minh Tuệ