Truyện
Kim Vân Kiều dù là thi phẩm phỏng tác của Thanh Tâm Tài Nhân
(Trung Hoa), đã bộc lộ những nét tư tưởng nhân bản và
thâm trầm của Nguyễn Du, thi phẩm đã nói lên thực trạng
phân hóa, suy yếu của Việt Nam vào thế kỷ 18, vừa tỏa
ra những thao thức về thân phận con người nói chung, và thân
phận con người Việt Nam nói riêng, của một thiên tài thi
ca và tư tưởng.
Các
nhà văn học đánh giá khác nhau về các giá trị của truyện
Kiều. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Du chủ trương thuyết "thiên
mệnh" của Nho giáo, hay thuyết "hồng nhan bạc mệnh" hoặc
"tài mệnh tương đố". Có ý kiến cho rằng Nguyễn Du giới
thiệu thuyết nhân quả và nghiệp báo của nhà Phật. Có ý
kiến bảo Nguyễn Du nói về khía cạnh bi kịch của một người
đàn bà tài sắc trong xã hội phong kiến.
Các
ý kiến trên đều phản ánh được một mặt nào đó các
triết lý của truyện Kiều.
Chúng
tôi thiết tưởng cần ôn lại cuộc đời Nguyễn Du và xã
hội Việt Nam thế kỷ 18 trước khi đi vào việc nhận ra tư
tưởng đặc biệt của thi hào.
Nguyễn
Du đã đọc kinh Kim Cương của Ðại thừa Phật giáo đến
cả nghìn lượt. "Ngã độc Kim cương thiên biến linh", theo
các tài liệu văn học hiện hành, sau năm 1975,- sống đi sâu
vào các tầng lớp nhân dân, thể nghiệm sâu sắc thân phận
con người. Do vậy, nguồn cảm xúc của nhà thơ có chiều
hướng đi vào phổ quát của thân phận con người mà không
dừng lại ở thân phận của Kiều, của bản thân, hay của
người Việt Nam ở thế kỷ 18. Tư tưởng Nguyễn Du bay vút
lên cao và thoát ra khỏi cái khung trời không gian và thời
gian hạn hẹp của xã hội đương thời. Tiếng thơ Nguyễn
Du vì vậy thiết tha tình người, thiết thực và nhân bản!
Hơn thế, tiếng thơ còn bay xa vào vùng trời tâm lý, trí tuệ
cao vời nữa.
Về "Hồng
Nhan Bạc Mệnh":
Hồng
nhan bạc mệnh là một sự thật ở đời, qua các thời đại,
do các lý do nội tại và ngoại tại, khách quan và chủ quan
dựng nên, như là:
-Xã
hội phong kiến là xã hội thiếu dân chủ, nếu không nói
là không có dân chủ, luật pháp thì thiếu công minh, không
hợp lý, hợp tình, đề ra các bất công áp bức, theo đó
nhan sắc và tài ba dễ bị nhận chìm.
-Các
nhà Nho với giáo dục xem nhẹ giá trị của người phụ nữ,
kỳ thị phái tính.
-Giai
cấp thống trị chuyên quyền, thao túng xã hội.
-Ðạo
đức luân lý của phong kiến thì tù hãm, ước lệ. Xã hội
phong kiến Việt Nam dưới thế kỷ 18 thì đầy dẫy các nạn
tham nhũng, buôn bán người, tứ đổ tường.
-Nhan
sắc và tài ba vốn dễ biến thành đối tượng để con người
ganh ghét, đố k?.
Bên
cạnh các lý do khách quan và ngoại tại ấy, dục vọng, ái
ân và những mong ước cao xa của các nhan sắc, tài ba là lý
do nội tại tạo nên những cơn sóng gió cuộc đời nhận
chìm chính tự thân họ.
Tất
cả những lý do bên trong và bên ngoài ấy đã viết thành
bi kịch của con người, đặc biệt là của người đẹp tài
hoa. Tất cả những lý do ấy là những cung nhạc đã phổ
thành khúc đoạn trường 15 năm của Kiều.
Thâm
nhập giáo lý duyên sinh và Kim Cương của Phật giáo, Nguyễn
Du hẳn là thấy rõ ràng các lý do ấy, và xúc động viết
thành bản trường thi lỗi lạc "Ðoạn trường tân thanh".
Hãy
điểm lại các vần thi đoạn trường bất hủ của nhà thơ:
-"Phận
hồng han có mong manh,
Nửa
chừng xuân thoát, gãy cành thiên hương" (câu 65-66)
-"Lạ
gì bỉ, sắc, tư, phong,
Trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen" (5-6)
-"Rằng
hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái
điều bạc mệnh có chừa ai đâu" (107-108)
-"Ðau
đớn thay phận đàn bà,
Lời
rằng bạc mệnh cũng là lời chung" (83-84)
-"Chữ
tài chữ mệnh khéo là ghét nhau" (câu 2)
-"Anh
hao phát tiếng ra ngoài,
Nghìn
thu bạc mệnh một đời tài hoa" (415-416)
-"Sư
rằng: phúc họa đạo trời,
Cội
nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có
trời mà cũng có ta,
Tu
là cội phúc, tình là giây oan" (2655-2658)
-"Thúy
Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô
duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại
thêm lấy một chữ tình,
Khư
khư mình buộc lấy mình vào trong" (2659-2662)
-"Xét
trong tội nghiệp Thúy Kiều,
Mắc
điều tình ái, khỏi điều tà dâm" (2681-2682)
-"Ðã
mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng
đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện
căn ở tại lòng ta,
Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài" (3249-3252)
Tất
cả các vần thơ vừa được trích dẫn nói lên rõ ràng Nguyễn
Du đã nhìn những biểu hiện nội tâm và ngoại tại của
Kiều dưới cái nhìn qui luật rất là "nhân quả và nghiệp
báo" ấy, nghiệp lực con người bao gồm nghiệp cũ và nghiệp
mới, biểu hiện qua các mặt của cuộc sống:
- Nhân
quả ngoại giới.
-
Nhân quả nội tâm.
-
Nhân quả vừa nội tâm vừa ngoại giới.
-Và
quan trọng nhất của giáo lý nhân quả này, là yếu tố tâm
lý quyết định tạo ra nghiệp nhân và thọ nhận nghiệp quả
của chính Kiều. Chính tâm lý của Kiều đón nhận các hậu
quả của nghiệp nhưng tâm lý đó vẫn có thể độc lập
với ảnh hưởng của các hậu quả kia, và cả đến có thể
chuyển đổi các hậu quả của nghiệp ngay trong hiện thế,
điều mà Nguyễn Du bảo:
"Thiện
căn ở tại lòng ta
Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài" (3251-3252)
hay:
"Sư
rằng: phúc họa đạo trời
Cội
nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có
trời mà cũng có ta
Tu
là cội phúc tình là dây oan" (2655-2658)
Trời,
đó là quy luật nhân quả khách quan, Ta, đó là trí tuệ, ý
chí và tâm lý hiện tại của con người. Nếu tâm lý ấy
tự tại, giải thoát khỏi các trói buộc, thì đoạn trường
dù có cũng như không, hay đoạn trường có thể đoạn dứt.
Tư
tưởng triết học và đạo lý ấy xác định rõ trách nhiệm
cá nhân của con người đối với chính mình mà không phải
là sức mạnh khác giữ vai trò quyết định hạnh phúc hay
khổ đau của đời mình.
Hồng
nhan bạc mệnh chỉ là hiện tượng của nhân quả giới. Nội
tâm của Kiều mới là yếu tố quyết định phổ hay không
phổ khúc đoạn trường. Ðây là triết lý con người rất
người, chỉ có con người có thể làm chủ lấy cuộc đời
mình.
Về Triết
Lý Tình Yêu:
Từ
thế kỷ 18 nhà thơ Nguyễn Du đã có quan niệm rất đặc biệt
về hôn nhân và tình yêu.
Kiều
là hình ảnh đại biểu cho tiếng nói tình yêu và tình người;
Thúy Vân, em ruột của Kiều, thì đại biểu cho tiếng nói
của hôn nhân và gia đình.
Những
bước đi tình cảm của Kiều là những bước đi của tình
yêu: của lòng trung trinh, của ray rứt nhớ nhung, của những
rung động mãnh liệt của con tim.
Lần
đầu đến với tình yêu, Kim Trọng, Thúy Kiều đã bước
qua hàng rào ước lệ của luân lý phong kiến, cái ước lệ
"nam nữ thọ thọ bất thân" chật hẹp và thiếu chất người
!
Thế
là, Kiều đã nói lên tình yêu là lẽ sống, nó có giá trị
vượt lên trên các giá trị ước lệ. Người ta chỉ có thể
bước qua các giá trị ước lệ hạn hẹp, mà không thể bước
qua lẽ sống thực của con người.
Với
Nguyễn Du, tình yêu có lý lẽ riêng của nó, có những bước
đi riêng của nó, có chổ đặt chân trên vùng đất khu biệt
của nó mà nếu bước qua (hay bước ra ngoài) thì tình yêu
sẽ hóa kiếp, như Kiều đã ngăn Kim Trọng trước dáng vẽ
có chiều suồng sã của chàng.
Nguyễn
Du xem tình yêu là phần tinh anh của tâm hồn, còn thể xác
chỉ là chiếc bóng của nó, như ý thơ này:
-"Như
nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi
nào cho đục được mình ấy vay" (3119-3120)
-"Chữ
trinh còn một chút này
Chẳng
cầm cho vững lại dày cho tan" (3161-3162)
Nhưng
yêu là con người yêu, yêu con người, và yêu cả con người
(tinh thần và thể chất). Vì thế, Nguyễn Du đã để Thúy
Vân thay Thúy Kiều sống chung hợp, săn sóc Kim Trọng. Tình
yêu còn có nghĩa là hy sinh, Kiều vì thế mà bán mình chuộc
cha, cứu em, Vương Quan, và đã lạy cầu Thúy Vân thay mình
chung sống với Kim Trọng.
Nguyễn
Du cho thấy tình yêu thì khác với dục vọng, khác với ham
muốn thể chất:
"Cũng
nhơ nhuốc lại bày trò
Còn
tình đâu nữa là thù đấy thôi.
Người
yêu ta xấu với người
Yêu
nhau thì lại bằng mười phụ nhau" (3155-3159)
Yêu
là cùng nhìn về một hướng, chổ gặp gỡ của hai tâm hồn:
"Hai
tình vẹn vẻ hòa hài
Chằng
trong chăn gối, cũng ngoài cầm thi.
Khi
chén rượu, khi cuộc cờ
Khi
xem hoa nở, khi chờ trăng lên" (3221-3224)
Thúy
Kiều và Thúy Vân thực sự là hai hình ảnh kết thành một
con người mà Nguyễn Du đã khéo vẽ:
"Ba
sinh đã phỉ mười nguyền
Duyên
đôi lứa cũng là duyên bạn này" (3125-3126)
Tình
yêu đã được thi ca Nguyễn Du vẽ ra tình người chân thật.
Khi tình người đó hướng về mẹ cha, nó là hiếu, khi hướng
về người bạn đường trăm năm, nó là tình yêu; khi hướng
về anh em, nó là dễ; khi hướng về bà con, láng giềng, đồng
bào, nó là nghĩa là nhân; khi hướng về xứ sở, nó là trung.
Quan
niệm đó của Nguyễn Du đã vượt ra khỏi quan niệm chật
hẹp cứng đờ của hiếu, trung, tình, nghĩa của Nho giáo,
giúp con người thoát khỏi nhiều bi kịch do mâu thuẩn giữa
hiếu và trung, giữa tình và hiếu, giữa tình và trungẨ gây
ra.
Ðây
là triết lý đầy tình người, rất là nhân bản của Nguyễn
Du, con người rất Việt Nam vậy.
Về Triết
Lý Giải Phóng Phụ Nữ:
Với
quan niệm của các nhà Nho xưa, phụ nữ bị đóng khung trong
"tam tòng" (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng
tử: ở nhà thì theo cha, đi lấy chống thì theo chồng, chồng
chết thì theo con) và "tứ đức" (công, dung, ngôn, hạnh).
Nguyễn
Du đã phá đổ chiếc khung cũ kỷ ấy, giới thiệu nàng Kiều,
người đẹp giỏi cầm, kỳ, thi, họa và kiêm thạo cả tửu,
giới thiệu Hoạn Thư khôn nước hơn Thúc Sinh:
-"Anh
hoa phát tiếng ra ngoài,
Tài
tình chi lắm cho trời đất ghen"
-"Thấp
cơ thua trí đàn bà,
Trông
vào đau ruột, nói ra ngại lời" (1947-1948)
-"Người
đâu sâu sắc bước đời,
Mà
chàng Thúc phải ra người bó tay".(2007-2008)
Nhà
thơ lỗi lạc ấy đã muốn giải phóng phụ nữ, giới thiệu
phụ nữ đi vào nhiều lãnh vực của xã hội.
Và
tháo gỡ cái quan niệm chật hẹp, phi lý về chữ trinh cũ:
-"Xưa
nay trong đạo đàn bà,
Chữ
trinh kia cũng có ba bảy đường" (3115-3116)
-"Như
nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi
nào cho đực được mình ấy vay" (3119-3120)
Cái
nhìn đầy nhân ái và trí tuệ ấy của Nguyễn Du là cái nhìn
giá trị mới đầy tính người, giải phóng con người ra khỏi
vùng giá trị cũ kỷ của Nho học.
Về
Tòa Án Nhân Dân Ðầu Tiên Của Việt Nam:
Sự
xuất hiện của nhân vật anh hùng Từ Hải như là sự xuất
hiện của một tòa án nhân dân xử các tội phạm phong kiến
và các tội phạm do chế độ phong kiến bệ rạc đẻ ra.
Trong phiên tòa xử Tú bà, Mã Giám Sinh và Hoạn Thư, Kiều
vốn là nạn nhân trở thành quan tòa. Tiếng nói của quan tòa
này hẳn là chính xác, công minh. Ðây là tiếng nói đích thực
của nhân dân vừa công bình, vừa nhân ái.
Với
Hoạn Thư, Kiều phán:
-"Tha
ra thì cũng may đời
Làm
ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Ðã
lòng tri quá thì nên,
Truyền
quân lệnh xuống trướng liền tha ngay" (2374-2378)
Với
Tú Bà và Mã Giám Sinh, nàng truyền:
-"Tú
Bà cùng Mã Giám Sinh,
Các
tên tội ấy đáng tình còn sao ?
Mệnh
quân truyền xuống khai đao
Thế
sao thì lại cứ sao gia hình" (2385-2388)
Với
hai phiên tòa nhân dân ấy, Nguyễn Du, một thiên tài thi ca
và tư tưởng, đã nói lên khát vọng thống thiết về một
xã hội nhân bản, hợp lý dựng xây trên công bằng, nhân
ái, trên nền tảng giá trị con người vì an lạc và hạnh
phúc cao cả của con người - mỗi người và mọi người.
Về Triết
Lý Hành Ðộng:
Nguyễn
Du, với trí tuệ và kinh nghiệm sống, đã đưa ra một triết
lý sống, hành động rất người và rất giá trị. Trong ý
nghĩa tương đối của thế giới hiện tượng, con người
và hạnh phúc của con người là giá trị cao quí và là giá
trị chuẩn. Các giá trị khác xoay quanh giá trị chuẩn ấy.
Trong trường hợp phải lựa chọn, thì con người và hạnh
phúc con người không phài là giá trị phải hy sinh.
Con
người phải sống, và sống với giá trị làm người của
nó. Nguyễn Du đã để Kiều phấn đấu với 15 năm đoạn
trường, duy chỉ một lần quyết định trầm mình, nhưng đó
chỉ là sự sắp đặt của nhà thơ với thái độ tương nhượng
với giá trị cũ, rữa sạch bụi quá khứ: Nguyễn Du đã để
vải Giác Duyên chờ sẳn để cứu nàng. Kiều sống có nghĩa
là các giá trị ước lệ cũ phải ra đi. Triết lý ở đây
là con người sống để xây dựng các giá trị, chứ không
phải vì các (giá trị) ước lệ giá trị mà hy sinh con người.
Nguyễn Du viết:
-"Ông
rằng bỉ thử nhất thì
Tu
hành thì cũng có khi tùng quyền" (3051-3052)
-"Xưa
nay trong đạo đàn bà
Chữ
trinh kia cũng có ba bảy đường.
Có
khi biến có khi thường
Có
quyền nào phải một đường chấp kinh" (3115-3118)
Khi
con người nắm vững trục giá trị, như Kiều giữ tấm lòng
trinh, lòng hiếu, thì tùy duyên mà hành xử.
Triết
lý hành động đó gọi là "tùy duyên nhi bất biến" hay "dĩ
bất biến ứng vạn biến".
Với
triết lý hành động này, các quan niệm cố chấp, bảo thủ
về giá trị đều trở nên xa lạ; bảo thủ, cố chấp, bấy
giờ chỉ là:
"Rằng
hay thì thật là hay,
Nghe
ra ngậm đắng nuốt cay thế nào" (489-490)
Ngày
nay ai sẽ là những người chia sẽ với quan niệm giá trị
sống hành động của Nguyễn Du ? Ai sẽ là người cảm thông
với nổi niềm ấy ("nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào")
của Nguyễn Du, như là chính Nguyễn Du đã dự liệu (hay đúng
hơn, là nghi ngờ) ?
"Bất
tri tam bách dư niên hậu
Thiên
hạ hà nhân khấp Tố Như"
Về Những
ảm hưởng Của Phật Giáo
Trong Thi
Ca Truyện Kiều:
Ngoài
việc chịu ảnh hưởng thuyết nhân quả và nghiệp báo nhà
Phật, Nguyễn Du còn viết ra những vần thơ đầy âm hưởng
Phật giáo. Ngôn ngữ thi ca vốn đã là rất biểu tượng,
ngôn ngữ thi ca Nguyễn Du còn biểu hiện trừu tượng hơn.
Nguyễn Du ngoài rung cảm thi ca, còn có rung cảm trí tuệ Phật
giáo. Nhà thơ núi Hồng Lĩnh đã nói đạo Phật bằng tiếng
nói của trái tim trần thế. Vần thi gợi lên ý ấy trong cảm
nhận của người viết trước tiên là:
"Ai
ngờ lại hợp một nhà
Lựa
là chăng gối mới ra sắc cầm" (3177-3178)
Mười
lăm năm đoạn trường là một bài học về "khổ đế" mà
nguyên nhân của nó, vừa hợp với giáo lý Tứ đế vừa hợp
với tinh thần giới luật nhà Phật, là lòng khát ái, dục
ái:
"Xét
trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc
điều tình ái, khỏi diều tà dâm" (2681-2682)
hay:
"Tu là cội phúc, tình là dây oan".
-Với
Phật giáo (tiêu biểu như các câu 1 và 2 trong kinh Pháp Cú)
thì tâm làm chủ, tâm tạo tác các nghiệp thiện và ác và
sẽ nhận lấy quả báo tương ứng về sau. Với Kiều, tâm
cũng quyết định vui buồn và giá trị của đời sống:
-"Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
-"Chữ
trinh còn một chút này
Chẳng
cầm cho vững, lại dày cho tan" (3161-3162)
hay
"chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".
-Với
Phật giáo, người Phật tử mộ đạo, mến đạo, quyết tâm
sống đạo mà nếu không hiểu đạo, không có chánh kiến
thì càng làm cô phụ giáo lý giải thoát mà thôi.
Aâm
hưởng giáo lý đó lại vọng vào trong vần thơ tái hợp mà
không tác hợp của Kiều:
"Người
yêu ta xấu với người
Yêu
nhau thì lại bằng mười phụ nhau"
Ngay
cả giáo lý Phật giáo minh bạch thế mà nếu hành giả chấp
thủ nó (chấp giới, chấp định, chấp tuệ, như kinh Xà Dụ
trình bày) thì sẽ rơi ngay vào cảnh:
"Yêu
nhau thì lại bằng mười phụ nhau"
- Phật
giáo, tiêu biểu như phẩm kinh Hạt Muối, Tương Ưng bộ kinh,
bảo rằng người với tâm từ bi rộng lớn thì hầu như không
chịu hậu quả của các việc làm nhỏ bị sai trái. Với Kiều
thì Nguyễn Du xác định:
"Như
nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi
nào cho đục được mình ấy vay" (3119-3120)
- Kinh
Kim Cương Bát Nhã, một kinh nổi tiếng của Ðại Thừa, thì
nhìn mọi hiện hữu đều do duyên sinh, chúng là không có tự
ngã, thực sự ở ngoài các giá trị cấu, tịnh, thiện, ác,
thị, phiẨ.. chúng không thật sự gây trở ngại đến vấn
đề tự do, giải thoát của con người. Trở ngại giải thoát
là nằm ở tâm con người, ở lòng tham ái, chấp trước của
con người. Tư tưởng này như là có chuyển âm hưởng của
nó vào vần thi:
"Duyên
kia có phụ chi mình
Mà
toan chia gánh chung tình làm đôi" (3989-3990)
- Với
người Phật tử, khi tâm tham ái, chấp trước được khóa
chặt, được kiểm soát, thì các hành động thân, khẩu, ý
trở thành các hành động giải thoát hết thảy. Với Kiều,
sau những ngày tháng đoạn trường thì:
"Từ
ngày khép cửa phòng the
Chẳng
tu thì cũng như tu mới là" (3107-3108)
- Người
tu tập đạo Phật, đặc biệt là các bậc Thánh hữu học,
dù tâm đã tỏ tường đạo lý, tỏ tường sự thật của
mọi hiện hữu, nhưng tập quán sinh tử vẫn còn vương vấn
thân sắc, có khi còn vương vấn cõi lòng. Nguyễn Du lại diễn
đạt một tâm trạng của Kiều sao mà nghe như động đến
tâm hồn của một thiền sư vậy, khi nhà thơ viết:
"Tiếc
thay chút nghĩa cũ càng
Dù
lìa ngó ý, còn vương tơ lòng" (2241-2242)
- Nhưng
khi mà thiền sư đã hất đổ hết các vọng tưởng, đốt
cháy hết sầu, bi thì quả là giờ phút đại phúc, nghe như
vừa dựng đứng dậy cả khung trời giải thoát, bởi vì bấy
giờ thiền sư đã phá tan hết sương vô minh đã nhiều đời
che khuất ngõ ý và làm tan hết mây dục vọng đã nhiều đời
giăng bít trời tâm. Nguyễn Du đã chuyển qua Kiều một cảm
xúc của thời kỳ hội ngộ như là cảm xúc của một thiền
sư đang đối diện với giải thoát:
"Trời
còn dễ có hôm nay
Tan
sương đầu ngõ, vén mây giữa trời" (3121-3122)
Thơ
của Nguyễn Du nghe ra vừa thơ vừa đạo suốt cả tâm sự
Thúy Kiều. Nếu bạn tìm hiểu kỹ giáo lý nhà Phật rồi
đọc lại thi phẩm tuyệt tác Kim Vân Kiều bạn sẽ bắt gặp
rất nhiều, nhiều lắm, các vần thơ lồng ý đạo. Thi ca
của thiên tài Nguyễn Du nhu hình thành một lúc hai bè nhạc:
một bè của khúc đoạn trường, bè kia là âm vang của trí
tuệ giải thoát./.
(Trích:
Những Hạt Sương, Thích Chơn Thiện - Sài Gòn, 2000)