Chúng
ta phải công nhận rằng về bộ môn này, Tây Phương đã phát triển lên tới đỉnh cao
cho nên không có điều chi xấu hổ nếu chúng ta phải học hỏi nơi họ. Có thể những
tác phẩm hay của tổ tiên chúng ta cũng đạt tới đỉnh cao này nhưng vì tổ tiên
chúng ta không chịu phân tích, không hệ thống hóa mà chỉ ngầm hiểu hoặc hiểu
theo linh tính cho nên con cháu đời sau muốn tìm hiểu những thành tố của văn
chương không biết nương tựa vào đâu. Trong khi đó, vì chuộng tinh thần khoa học
cho nên Tây Phương đã phân tích và liệt kê ra. Sau đây là một số những thuật
ngữ văn chương - giống như những dụng cụ quý báu trợ lực cho người làm thơ,
viết văn:
Alliteration: Lập
lại phụ âm đầu.
Thí dụ: Ðó là anh chàng ngờ
nghệch, ngốc nghếch.
Cô ta vừa dịu dàng vừa duyên dáng.
Allusion: Nói
bóng nói gió, ám chỉ.
Chẳng hạn người con trai muốn
cưới người con gái khâu giúp mình cái áo trong bài ca dao “Tát Nước Đầu Đình” nhưng lại nói bóng nói gió như sau:
Mai
mốt lấy chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp em một thúng xôi vò.
Một
con lợn béo một vò rượu tăm.
Giúp
em đôi chiếu em nằm.”
Anecdote: Giai
thoại
Là một đoạn văn ngắn được chen
vào để mua vui hoặc phong phú hóa câu chuyện.
Aphorism: Cách
ngôn
Là câu nói dường như có giá trị
muôn đòi. Thí dụ: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Ăn mặn khát nước v.v..
Characterization: Xây
dựng nhân vật (sao cho độc đáo)
Climax: Cực
điểm của câu truyện, là chỗ phăng ra manh mối và từ đó căng thẳng giảm dần và
câu truyện đi vào kết thúc.
Conflict: Xung đột, mâu thuẫn (để đẩy
truyện đi tới)
Connotation/denotation: Nghĩa
rộng, sự bao hàm
Description: Sự mô
tả, miêu tả
Đó là cách mà người viết văn vẽ
nên một hình ảnh, một khủng cảnh, một con người, một biến cố, một tình huống
qua việc chọn chữ, nhất là các tính từ (adjectives) phải hết sức cẩn thận. Mọi
sự cường điệu, làm dáng, buông thả sẽ làm hư tác phẩm.
Dramatic
irony:
Tình huống trớ trêu. Một thí dụ của tình hưống trớ trêu là khi Romeo tưởng
Juliet đã chết cho nên lấy dao tự sát trong khi khán giả hay người đọc biết
chắc rằng Juliet vẫn còn sống.
Event: Diễn
biến của câu truyện.
Exposition: Sự
phơi bày
Là đoạn văn quan trọng trong bố
cục để giới thiệu bối cảnh, nhân vật cốt lõi của câu chuyện. Thí dụ, tác giả có
thể mở đầu câu chuyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh” như sau, “Cuộc chiến giữa Sơn Tinh
và Thủy Tinh là cuộc tranh giành Công Chúa Mỵ Nương con Hùng Vương, kéo dài đã
hơn 5000 năm nay.”
Falling
action:
Xung đột / căng thẳng giảm dần (sau cực điểm của câu truyện).
Figurative
language:
Dùng ngôn ngữ bóng bẩy.
Thiếu
ngôn ngữ bóng bẩy thì không phải là tác phẩm văn chương. Sau đây là một đoạn
văn sử dụng ngôn ngữ vừa hiện thực vừa bóng bẩy của Margaret Mitchell khi mô tả Scarlett trong tác phẩm “Cuốn Theo Chiều
Gió” ( Gone With The Wind)
“Vào
buổi chiều rực nắng của Tháng Tư năm 1861, tại đồn điền của cha nàng, Scarlett
nổi bật như một bức tranh tuyệt đẹp khi nàng ngồi ở dưới hàng lan can dâm mát
cùng với Stuart Tarleton và Brent Tarleton. Chiếc váy màu xanh trang điểm hoa hồi
trải dài mười một bộ trên chiếc giá đỡ thật hợp với đôi dép da dê mà cha nàng mới mua cho nàng ở
Atlanta. Chiếc váy làm
tăng thêm vẻ tuyệt mỹ của chiếc eo thon nhỏ và bộ ngực nảy nở của lứa tuổi mười
sáu được nâng bởi chiếc nịt bó sát lấy thân hình.
Cho dù dưới chiếc váy trải dài nề nếp, mái
tóc được búi trong lưới, đôi bàn tay trắng nhỏ để yên trên lòng, nàng vẫn không
thể nào giấu được con người thực của nàng. Trên khuôn mặt khả ái, đôi mắt ấy thật
hiếu động, phá phách và tràn đầy nhựa sống, hoàn toàn khác hẳn với vóc dáng
đoan trang, thùy mị của nàng. Phong thái đó là do mẹ nàng đặt để lên nàng bằng
những lời khuyên răn nhẹ nhàng và bằng kỷ luật khắt khe của bà vú – nhưng còn
đôi mắt thì kia thì là cái gì riêng tư của nàng.”
(Bản dịch của tác giả)
Flashback: Hồi
tưởng, hồi ức
Thí dụ, nhà văn có thể đang đi
trên con đường ngày hôm nay nhưng nhớ lại những kỷ niệm đã có trên con đường
này thuở ấu thơ.
Foil: Nhân
vật tương phản, phản diện, cũng còn gọi là antagonist
Foreshadowing: Báo
hiệu, báo trước, điềm báo trước (để dẫn dắt độc giả)
Chẳng
hạn đôi tình nhân đang đứng tâm sự bên cầu, người con gái khẽ thở dài, vân vê
tà áo nói, “ Em không biết cuộc tình chúng mình rồi đây sẽ ra sao! ” Câu
văn này chính là điềm báo trước cho một cơn dông bão sẽ xảy đến. Nhưng nếu sau
này chẳng có biến cố gì xảy ra cả thì đoạn văn trên là một đoạn văn thừa. Chẳng
hạn đoạn Kiều nghe Vương Quan kể chuyện Ðạm Tiên “ Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa “ rồi sau đó nàng thắp hương
khấn vái, rút trâm trên đầu, vạch da cây mà “Vịnh bốn câu ba vần “ rồi “Lại càng mê mẩn tâm thần” chính là điềm
báo trước cuộc đời cô sau này cũng sẽ “đoạn trường” như Ðạm Tiên.
Hyperbole: Ngoa
ngôn, cường điệu (để nhấn mạnh và gây ấn tượng)
Thí
dụ: Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình.
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn.
Ngửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
(Nguyễn Gia Thiều)
Thân hình bà ấy to như cái bồ
sứt cạp.
Lưng bà ấy rộng như cái cánh phản cho
nên
thiên hạ gọi bà ấy là Bà Phán Cảnh.
Imagery: Giàu
hình ảnh/ tượng hình. Một tác phẩm giàu hình ảnh sau này quay thành phim sẽ hấp
dẫn khán giả.
Inference: Ðể
người đọc có thể suy luận, suy diễn ra
Inversion: Sự
đảo ngược thứ tự của chữ trong một câu để tạo nên chất thơ:
Thí dụ: Hai câu sau đây nếu để
nguyên thì không giầu chất thơ:
Em đến chơi chiều thu
Lá vàng rơi lác đác
Nhưng nếu đảo ngược thì lại có
nhiều chất thơ:
Chiều thu em đến chơi
Lác đác lá vàng rơi
Và ta có thể thêm hai câu nữa để
kết thúc bài thơ này:
Mắt em chìm trong mộng
Tình anh đã chín rồi.
Irony: Mỉa mai, cay đắng.
Main
character: Nhân vật chính là nhân vật được nhắc nhở nhiều
nhất và sẽ xuất hiện từ đầu tới cuối, qua đó nhà văn xây dựng đề tài của mình.
Mọi diễn tiến, mọi tình huống phải xoay quanh nhân vật chính. Tôi đã đọc một “truyện ngắn” đăng trên một nhật báo lớn
nhất ở San Jose năm 1995 với đoạn nhập đề như sau: “Hôm đó Nga tình tờ gặp Trí. Trí có người chị tên Bích và Bích có người anh rể tên Hoàng .” Ngay phần nhập đề, tác giả
đã “quay” độc giả chóng cả mặt bằng cách giới thiệu một lúc bốn nhân vật mà
không biết ai là nhân vật chính ! Có lẽ học trò Lớp Năm ngày xưa cũng không
viết một đoạn văn kỳ lạ đến như vậy. Rất may cho chúng ta là tác giả không viết
tiếp:“Hoàng có đứa con gái tên Lisa Nguyễn và bạn nó là Catherin Lê mới vừa thi hoa hậu áo dài
và nó có thằng bồ tên Tony. ”
Ðọc một đoạn văn dẫn nhập như thế chắc độc giả sẽ ngã ra bất tỉnh nhân sự ! Thế
nhưng khuyết điểm này tôi thường gặp ở khắp mọi nơi nhất là trong thể loại
truyện ngắn hiện đang có khuynh hướng phổ biến ở hải ngoại.
Main
idea:
Ý chính
Ý chính đây là ý chính của một đoạn văn. Một
truyện được nối kết bằng nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn văn có một ý chính. Nếu đọc
một đoạn văn mà độc giả hoặc nhà phê bình không thể đúc kết được ý chính thì
đoạn văn đó trở nên vô giá trị dù tác giả có trổ hết tài văn chương như thế nào
đi nữa. Như chúng ta đã biết một tác phẩm hay sau này có thể được viết rút gọn
lại để cho phù hợp với nhiều trình độ khác nhau. Nếu các nhà biên soạn không sao
hiểu được ý chính của một đoạn văn chắc chắn họ sẽ xếp tác phẩm ấy sang một
bên. Sự kết thúc ý chính của một đoạn văn thường được nhận thấy bằng dấu chấm
xuống hàng và thụt lui đầu dòng.
Metaphor: Phép
ẩn dụ, so sánh gián tiếp hai vật khác nhau nhưng lại có những nét chung.
Thí dụ:
Sao
là những ngọn nến lung linh trên trời.
Mẹ
già như chuối ba hương
Như sôi nếp một như đường mía lau
(Ca Dao)
Em
là dòng dõi Nàng Tô Thị (Cung Trầm Tưởng)
Mood: Tâm
trạng tức trạng thái tâm lý do tác giả tạo ra trong truyện.
Motif: Yếu
tố chủ yếu, mấu chốt trong chuyện. Chẳng hạn cô gái kết hôn với hoàng tử trong các câu truyện thần tiên. Cô gái hóa
thành chồn tinh trong truyện Liêu Trai Chí Dị.
Motivation: Ðộng
lực, lý do thầm kín.
Onomatopoetic: Xử dụng những chữ tượng thanh.
Thí
dụ: Ðì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om sòm bên vách bức tranh gà
Chí
cha chí chát khua giày dép
(Trần Tế Xương )
Tiếng
suối chảy róc rách.
Súng
nổ ầm ầm.
Tiếng
pháo nổ đì đùng
Tiếng
trẻ nhỏ nói bí bô.
Ông
Tây xí xô xí xào.
Tiếng
mau sầm sập như trời đổ mưa (Kiều)
Tiếng
lá rơi xào xạc.
Những
chiếc lá khô khốc lăn lông lốc trên đường.
Personification: Nhân
cách hóa
Gán cho đồ vật, con vật một ý
nghĩ, cảm xúc như con người.
Thí dụ:
-Chiếc
xe lửa nặng nề, mệt nhọc, thở dài một tiếng rồi dừng lại trên sân ga.
- Từng
đợt sóng vỗ bờ rì rào thong thả chạy vào bờ, trào bọt trắng như muốn vỗ về
xóm chài nhỏ bé đang chìm đắm trong giấc ngủ về đêm.(Trích
truyện dài Chọn Lựa)
-
Giấc mơ đó cứ thì thầm bên gối nàng biết bao đêm như vậy.
Plot: Bố
cục
Cách sắp xếp các diễn biến sao
cho hợp lý, hấp dẫn.
Point
of view:
Quan điểm của tác giả.
Pun: Lối
chơi chữ
Với mục đích khôi hài, mỉa mai,
châm biếm. Điều này có thể thấy rất nhiều trong văn chương bình dân Việt Nam,
chẳng hạn như “lớn lại” là “lái lợn”, “tượng lo” là “lọ tương”.
Realism:
Hiện thực - tức mô tả sự kiện đúng như trong cuộc
sống, không lý tưởng hóa, lãng mạn hóa hoặc cường điệu.
Resolusion: Kết
cuộc, kết thúc.
Rhyme
and Rhythm: Xử dụng vần điệu, nhạc điệu của ngôn ngữ để tạo
tính trầm bổng cho bài văn, bài thơ.
Thí dụ: Trong Quê Mẹ của Thanh
Tịnh, đoạn văn sau đây rất trầm bổng và đầy nhạc điệu:
“Hằng
năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, trên không có những đám mây
bàng bạc, lòng tôi lại nao nức, hoang mang của buổi tựu trường. Buổi mai hôm
ấy, buổi mai đầy sương thu và đầy giá lạnh…”
Rising
action:
Xung đột mỗi lúc mỗi trở nên căng thẳng.
Satire: Tính
trào phúng, tính trào lộng.
Setting: Bối cảnh,
khung cảnh mà câu truyện xảy ra thường bao gồm thời gian và không gian/địa điểm.
Nếu không nói rõ không gian và thời gian, sau này các nhà đạo diễn sẽ vô cùng
bối rối nếu tác phẩm được quay thành phim.
Simile: Ví
von
Dùng những chữ như: Như thể,
giống như, chẳng khác nào.
Thí dụ:
- Sương như búa bổ mòn
gốc liễu. (Cung Oán Ngâm Khúc)
- Nàng vũ nữ có thân hình uyển
chuyển như một con mèo.
- Nó nói dối như cuội.
Stereotype: Rập
lại khuôn mẫu có giá trị bất di bất dịch. Thí dụ:
-
Mai cốt cách, tuyết tinh thần. (Kiều)
(Tuyết
tượng trưng cho sự trong trắng, Mai tượng trưng cho sự thanh cao)
- Chẳng
hạn như bà mẹ ghẻ trong các câu truyện thần tiên (Tấm
Cám, Cinderella, Cô Bé Lọ Lem)
- Gian ngoan như Tào Tháo
Style: Lối hành văn – chẳng hạn như Hemingway nổi tiếng vì
đã dùng những câu văn ngắn gọn và dễ
hiểu.
Supporting
details:
Những chi tiết, tình tiết để dẫn chứng cho một hình ảnh mà tác giả đưa ra.
Chẳng hạn khi tác giả nói hắn là một gã lưu manh thì phải có những chi tiết dẫn
chứng xem gã lưu manh như thế nào.
Symbol: Tượng
trưng, tiêu biểu
Theme: Chủ
đề (tình yêu, chiến tranh, xã hội, tù đày…)
Tone: Văn
phong
Văn phong là nét độc đáo của từng
tác giả. Có tác giả thích lối văn cầu kỳ, có tác giả thích lối văn châm biếm
cay độc hoặc hài hước hoặc lãng mạn, bình dị.
Voice: Tính
độc đáo – Không thể tìm thấy nơi tác giả khác. Nếu nhà văn không tạo được tính
độc đáo thì tác phẩm của mình sẽ chết trong đám loạn quân.
II- CÁC THỂ LOẠI VĂN CHƯƠNG (*)
Nền văn
chương của Tây Phương đã phát triển tới đỉnh cao cho nên hết sức đa dạng và
phong phú. Sau đây là một số thể loại văn chương:
- Truyện
Ngụ Ngôn ( Allegory)
- Tự
Truyện (Autobiography) viết về cuộc đời của mình
- Tiểu Sử
( Biography) viết về cuộc đời của người khác
- Thơ Trào
Phúng (Burlesque)
- Bình
luận (Criticism)
- Truyện
Trinh Thám (Detective Story)
- Nhật Ký
(Diary)
- Kịch
(Drama)
- Thiên Sử
Thi, Thiên Anh Hùng Ca (Epic)
- Thơ viết
dưới dạng thư gửi cho ai (Epistle)
- Tiểu
Luận ( Essay)
- Truyện
Cổ Tích (Fable)
- Truyện
Quái Ðản, Hoang Ðường (Fantasy) chẳng hạn trong đó có những con thú, cái máy
biết nói tiếng
người. Tây Du Ký thuộc thể loại vừa Dã
Sử , Huyền Thoại (Legend) vừa hoang đường (Fantasy).
- Tiểu
Thuyết (Fiction)
- Truyện
Dân Gian (Folklore)
- Truyện
Ma (Ghost Story)
- Huyền
Thoại, Dã Sử (Legend) truyện thêm thắt dựa vào một nhân vật lịch sử có thật.
- Truyện
Thiếu Nhi (Literature for Children)
- Bài Hát
Ru Con (Nursery Rhyme)
- Thơ Nhại
(Parody) nhại một bài thơ khác
- Thơ
(Poetry)
- Tiểu
Thuyết Diễm Tình (Romance)
- Trường
Thiên Tiểu Thuyết (Saga)
- Hài Kịch
(Satire)
- Truyện
Ngắn (Short Story)
- Truyện
Kinh Dị (Suspense Story) không phải truyện ma, trong đó tạo ra những tình huống
kinh hoàng khi
con người phải đối đầu với cái chết.
Tây Phương phát triển rộng rãi bộ môn này và lan qua kịch kinh dị,
phim
kinh dị “toát mồ hôi lạnh”như loại phim
Hitchkok cuối thập niên 1960. Còn văn chương Việt Nam
ít
thấy truyện kinh dị, có lẽ do tâm tính, văn hóa và ảnh hưởng tôn giáo chăng?
- Truyện
Phóng Ðại (Tall Tell) như đấm một cái chết con voi, búng một cái chết con cọp,
nhảy một cái qua
ngọn
núi.
II- MỘT SỐ KINH NGHIỆM VIẾT VĂN
Tôi nghĩ rằng bất cứ nhà văn nào
sau một thời gian cũng sẽ rút ra được một số kinh nghiệm. Ðối với tôi, giai
đoạn từ 1986 tới 1995 là giai đoạn say sưa viết và chưa rút ra kinh nghiệm hoặc
chỉ kinh nghiệm chút ít. Dĩ nhiên kinh nghiệm của mỗi nhà văn đều khác nhau
nhưng cùng chung một mục đích sao cho tác phẩm hoàn thiện, tránh những khuyết
điểm nhỏ nhặt đáng tiếc làm hư tác phẩm.
Thứ
nhất:
Phải viết bằng cả khối chân tình và rung động. Không ai buộc nhà văn phải trải
qua những tình huống đề cập trong truyện bởi không một ai có thể có đủ mọi thứ
kinh nghiệm trên cõi đời. Do đó nhà văn có thể tưởng tượng hoặc hư cấu. Nhưng
dù hư cấu, tưởng tượng như thế nào đi nữa, nhà văn phải rung động hoặc thích
thú với những gì mình viết ra. Bất kỳ một sự làm dáng, cường điệu nào cũng sẽ
làm hỏng tác phẩm. Ngoài ra, viết theo mệnh lệnh, viết theo thiên kiến, viết
theo thị hiếu của quần chúng, xu thời cũng sẽ hỏng tác phẩm.
Thứ
hai:
Không có một luật lệ nào buộc nhà văn phải viết thế này, phải viết thế kia.
Trong khi viết văn, nhà văn là Ông Trời. Ông ta có thể cho người chết đã ngàn
năm, sống dậy và nói chuyện khơi khơi với chúng ta. Ông ta cũng có thể cho một
cô công chúa cành vàng lá ngọc lấy một tên vô loại xấu xa. Ông ta có thể cho
một bà mệnh phụ lấy ngay người đầy tớ của mình. Nhưng cho dù hư cấu như thế nào
đi nữa nhà văn vẫn phải thuyết phục được độc giả chấp nhận câu chuyện mà ông ta
bịa đặt, rồi vui buồn, phẫn nộ, thống khoái, kinh hoàng với những gì ông ta
viết. Ðó chính là thiên tài của nhà văn làm cho câu truyện sống động, hợp lý.
Thứ
ba:
Nhà văn không phải đơn thuần diễn tả sự kiện vì tác phẩm còn bao gồm tư tưởng
và xúc cảm do chứng kiến, do hồi ức hay do tưởng tượng. Nếu muốn tìm hiểu sự
kiện không thôi thì nên đọc báo. Nhà văn có thể dùng ngôn ngữ rất bóng bẩy hoặc
lối văn hàm ngụ hoặc ẩn dụ cho nên một đoạn văn có thể tối nghĩa với người này
nhưng lại gây thích thú cho người khác. Do đó muốn thưởng thức văn chương cũng
cần phải làm quen với văn chương, phải đọc nhiều, phải suy nghĩ nhiều. Người
đọc không cần phải từng trải việc đời nhưng cần có đầu óc bén nhạy để hiểu được
và cảm được những gì người khác đã trải, đã cảm nghiệm, đã suy nghĩ.
Nói vậy
không có nghĩa nhà văn muốn viết thế nào thì viết. Dù dùng nhiều ẩn dụ, dù dùng
ngôn ngữ bóng bẩy, dù dùng lối văn hàm ngụ - vẫn có một giới hạn - đó là người
đọc phải hiểu nhà văn viết cái gì. Muốn người đọc hiểu mình viết gì, nhà văn
phải dùng những câu văn trong sáng. Có điều luẩn quẩn là, muốn tạo một đoạn văn
trong sáng chỉ cần tránh một đoạn văn tối nghĩa. Ðoạn văn tối nghĩa là đoạn văn
mà người đọc không hiểu tác giả muốn nói gì. Khi chính nhà văn còn chưa rõ ý
nghĩa của câu văn mình viết ra thì nên bỏ câu văn hoặc đoạn văn đó, đừng tiếc.
Muốn có một đoạn văn trong sáng thì nhà văn phải dùng chữ cho chính xác. Một
đoạn văn dùng chữ không chính xác có khi chưa hẳn là đoạn văn tối nghĩa nhưng
khiến người đọc hiểu lầm ý của mình. Sau đây là một vài thí dụ về cách xử dụng
chữ cho chính xác:
1. Dù quen nhau đã lâu mà chàng không dám tâm
sự cùng nàng.
2. Dù quen nhau đã lâu mà chàng không dám ngỏ
ý cùng nàng.
Câu 1: Chàng không dám tâm tình
với nàng chuyện gì đó.
Câu 2: Chàng không dám nói rằng
(ngỏ ý rằng) chàng đã yêu nàng.
3. Chàng ta hùng hổ tiến tới.
4.
Chàng ta hùng dũng tiến tới.
Câu 3: Chàng ta tiến tới với thái
độ gây hấn.
Câu 4: Chàng ta tiến tới với thái
độ tự tin.
Nói tóm lại, phải chọn chữ và câu
văn thích hợp để trình bày, diễn tả một không khí thống nhất, thích hợp với một
tình thế nào đó. Chẳng hạn không thể có một chữ, một câu văn bỡn cợt trong đoạn
văn đang mô tả một không khí trang nghiêm - nếu không phải là truyện hài hước. Tôi
còn nhớ kỷ niệm “tập làm văn” năm 1955 khi còn học Đệ Thất (Lớp 6 bây giờ).
Trong một bài luận văn, để diễn tả nỗi vui của trẻ thơ, học sinh tôi đã dùng
danh từ “
khoái tỉ “. Sau khi chấm bài
xong, giáo sư gọi tôi lên nói “
Chữ “khoái
tỉ” không được đứng đắn em không nên dùng trong văn
chương.” Nghe thầy dạy thế, tôi hiểu ngay. Hai chữ “
khóa tỉ” tức vui sướng- là ngôn ngữ đường phố của bọn trẻ con chúng
tôi. Trải qua 57 năm tức hơn nửa thế kỷ mà tôi vẫn còn nhớ bài học văn chương quý
giá này. Ngoài ra, chúng ta phải chọn chữ thật dịu dàng, dễ thương, thật nhẹ và
thật thơ mộng để mô tả buổi gặp gỡ đầu tiên của mối tình đầu. Chúng ta hãy đọc
một đoạn văn mô tả một cảnh vượt thác dưới đây để xem khả năng chọn chữ của tác
giả: “
Chiếc phao nổi chở bốn người chồm
lên, nhảy xuống theo dòng nước cuộn chảy. Nước từ trên cao đổ
xuống ầm ầm làm cho người ta có cảm tưởng họ đang vật lộn với con thủy
quái hung dữ đang vùng vẫylàm bắn tung bọt nước trắng xóa.” (Trích
trong Reading Literature của nxb McDougal, Littell)Thứ
tư:
Phải tránh những đoạn văn thừa thãi. Ðoạn văn thừa thãi làm sự tập trung của
độc giả bị gián đoạn và đôi khi gây phản ứng bực bội. Mỗi câu văn viết ra đều
có ý tứ, không ngoài mục đích dẫn dắt độc giả đi tới. Do đọc nhiều, tôi nhận
thấy những đoạn văn thừa thãi phát xuất từ tính dễ dãi của người viết hoặc
người viết muốn khoe kiến thức của mình. Do có những đoạn văn thừa thãi mà tác
phẩm trở nên nhạt nhẽo khiến không hấp dẫn người đọc.
Chúng
ta nên nhớ rằng một tác phẩm văn chương không phải là một tài liệu phô diễn kiến
thức. Muốn tìm hiểu kiến thức người ta sẽ không tìm đến sách văn chương. Khi
nhà văn đang mô tả đôi tình nhân trong một quán nhỏ ngồi bên nhau với ly ruợu,
má người đàn bà ửng hồng vì men rượu song cũng vì men tình mà tác giả lại
chuyển sang bàn về hằng trăm thứ rượu chát (rượu vang) có trên cõi đời này để
khoe kiến thức thì đúng là tiểu thuyết kiếm hiệp câu giờ của Kim Dung. Những
chi tiết thừa thãi này sẽ làm hỏng tác phẩm.
Một tác
phẩm có giá trị là một tác phẩm cô đọng. Cô đọng không có nghĩa là thiếu, nhưng
chắc chắn không thừa. Sau hai mươi năm viết văn, giả thử bây giờ cho tôi viết
lại tất cả các tác phẩm mà tôi đã xuất bản, thì tất cả những tác phẩm đó chỉ
còn lại hai phần ba số trang là cùng. Nói khác đi, mới khởi đầu viết người ta
có khuynh hướng viết cho thật nhiều, viết tràng giang đại hải. Nhưng khi đã
viết nhiều rồi thì lại muốn viết ngắn, viết cô đọng. Cái khác biệt giữa nhà văn
mới vào nghề và nhà văn trưởng thành ở chỗ đó.
Thứ
năm:
Thời gian và không gian của tác phẩm cần phải nêu rõ và chính xác. Không nên
viết về những gì mà mình không chắc chắn. Những gì không chắc chắn nên coi lại
các tài liệu lưu trữ. Cách trang phục, ăn nói của mỗi thời đại, mỗi nơi đều
khác nhau. Trí nhớ và đầu óc tưởng tượng của con người dù sao cũng có giới hạn.
Ngoài ra nhiều hình ảnh cũng đã phai mờ theo thời gian và lầm lẫn niên hiệu,
ngày, tháng. Leon Tolstoi khi viết bộ Chiến Tranh và Hoà Bình đã phải đi đến
tận nơi quan sát địa thế để viết về những trận đánh. Khi viết truyện ngắn “Songkhla
Dậy Sóng” tôi đã phải mở sách tham khảo để nghiên cứu về Thái Lan, Thị Trấn
Songklha cùng một số bờ biển Thái Lan cũng như các tên gọi như Surat, Thom, U
Thai, Khamphaeng đều lấy ra từ những tài liệu này. Nhờ đã từng đi qua các nơi
như Phan Thiết, Vũng Tàu và một vài bến cảng ở Hoa Kỳ cùng đọc những truyện về
cướp biển– chính những kinh nghiệm đó đã giúp tôi tìm ra được những cái tên như
Quán Biển Xanh, Quán Giang Hồ, Con Tàu Lươn Biển, Con Tàu Sóng Thần làm cho câu
truyện vừa thơ mộng, vừa có tính trinh thám.
Thứ
sáu:
Nên viết truyện ngay trên máy điện tử. Trước đây ở vào những năm đầu của thập
niên 1990 khi máy điện tử đã trở nên cực kỳ phổ thông và giá đã hạ, một số
người khuyên tôi nên dùng máy điện tử để viết văn, tôi một mực từ chối. Lý do
thứ nhất là viết văn trên máy điện tử đòi hỏi phải học đánh máy là điều tôi
ghét thậm vì khó và phải đánh máy cả mười ngón tay. Thứ hai viết văn bằng máy
điện tử làm mất cả hứng. Nhà văn với cây bút đã trở thành thói quen cả mấy trăm
năm nay rồi. Nay buộc ngồi trước chiếc máy điện tử coi bộ gò bó quá. Nhà văn
cần phải lang thang vớ vẩn, có khi phải nằm dài ra để suy nghĩ, có khi phải
nhâm nhi cà-phê, phì phèo thuốc lá. Cho nên tôi nhất định không chịu viết văn
trên máy điện tử. Thế nhưng do nhu cầu đọc và viết điện thư cho nên dù muốn dù
không tôi cũng phải ngồi trước chiếc máy điện tử đánh máy lai rai. Lâu rồi cũng
thành thói quen và từ năm 1997 đến nay tôi đã chính thức viết văn bằng máy điện
tử mà không thấy trở ngại và cũng chẳng thấy gì gọi là mất hứng. Ðiều này giúp
tôi giải quyết một vấn nạn đã làm tôi khổ tâm trong bao năm nay là phải chép
lại vài trăm trang của bản thảo – một công tác mà tôi coi như lao động khổ
sai. Dĩ nhiên khi đi xa không thể đem
theo máy điện tử, tôi có thói quen đem theo một xấp giấy bỏ trước túi áo. Tưởng
tượng ra điều gì hoặc sáng tác được bài thơ nào tôi ghi ra ngay và khi về thì
đánh máy lại. Viết văn bằng máy điện tử quen rồi cũng thấy thú vị và trở nên
ghiền và nhất là tiết kiệm được vài trăm đô-la nếu sau này chúng ta có ý định
xuất bản tác phẩm. Ngoài ra lại còn tránh được tai nạn hỏi – ngã đang là một vấn nạn lớn ở hải ngoại bây giờ. Nếu mình nhờ
người ta đáng máy, phần lớn những người đánh máy thuê ăn tiền trình độ học vấn
thấp cho nên thường lẫn lộn giữa dấu hỏi và dấu ngã làm cho người đọc hết sức
bực mình và làm giảm giá trị của bài văn, bài thơ, và có thể di hại đến nhiều
thế hệ sau này nhất là thế hệ trẻ ở hải ngoại không được học cũng như không
được dạy Việt Ngữ đúng mức.
Vào
ngày 11 Tháng 9, năm 2001 khi khủng bố tấn công vào Trung Tâm Thương Mại Thế
Giới ở New York và Hoa Kỳ đã mở cuộc tấn công vào hang ổ của nhóm khủng bố
Taliban và từ đó cái tên A Phú Hãn xuất hiện trên mặt báo chí không thiếu một
ngày nào. Thế nhưng ở San Jose và Westminster không thiếu gì những tờ báo lớn đã
nhiều lần đi những hàng chữ lớn A Phú Hản (dấu hỏi) thay vì A
Phú Hãn (dấu ngã). Nếu sai sót này cứ kéo dài mãi thì chẳng bao lâu nữa
sẽ xuất hiện một thứ “Việt Ngữ “ quái đản ở hải ngoại với Hoàng Xuân
Hãn, Trần Nguyên Hãn sẽ biến thành Hoàng Xuân Hản và Trần Nguyên Hản và những câu thơ trác tuyệt trong Kiều hay
Chinh Phụ Ngâm hoặc Cung Oán Ngâm Khúc cũng sẽ lộn tùng phèo như sau:
Dưới cầu nước chãy trong
veo
Bên cầu tơ liểu bóng chiều
thướt tha
(Kiều)
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẫu vẻ người
tang thương (Cung
Oán)
Vầng trăng ai xẽ làm đôi
Nữa in gối
chiếc nữa soi dặm trường ( Chinh Phụ Ngâm)
Không phải chỉ hải ngoại mới có “thảm
họa hỏi- ngã “ mà ngay trong nước cũng vậy. Tình cờ vào một siêu thị tôi thấy
trên chai nước chấm sản xuất ở Việt Nam ghi Nước Mắm Pha Sẳn thay
vì phải ghi Nước Mắm Pha Sẵn.
Sau
hết, viết văn trên máy điện tử dù tiện lợi song có điều ai cũng phải công nhận
là đối với những nhà văn có tài, người đời sau muốn mua lại các bản thảo thì
đành chịu thua. Viết văn trên máy điện tử người ta có khuynh hướng sửa chữa
ngay cho nên không thể nào có bản thảo - ngoại trừ các tác phẩm viết dở dang đã
được lưu trữ vào đĩa và có thể coi đó như bản thảo.
Đào
Văn Bình
(Trích
sách 20 Năm Viết Văn xb năm2004)
(*) Sách
Literature của McDougal , Littell