Thành kính đảnh lễ giác
linh Sư Ông,
Mãi cho đến hôm nay, khi viên gạch cuối cùng
được lát xuống nền chánh điện Đạo Tràng Phổ Hưng, con mới có
chút thời gian rảnh để ngồi viết những dòng chữ muộn màn này,
hầu kính dâng lên giác linh Sư Ông như một lời sám hối với tất
cả thành tâm của một môn đệ Phổ Bảo – Hưng Khánh đang độc hành
trên cuộc đăng trình viễn xứ.
Con ngồi đây xâu chuỗi lại những gì ký ức có
thể ghi nhớ về Sư Ông - bậc “Tôn Túc Mô Phạm”, bậc “Long Tượng
Thiền Môn” mà con từng có thiện duyên được gần gũi và thấm nhuần
ân đức.
Ngưỡng bái bạch giác linh Sư Ông,
Nếu như cuộc đời mỗi con người đi theo một
định mệnh, thì khúc quanh của mỗi một đoạn đường đời là dấu ấn
khó phai mờ. Ngả rẽ cuộc đời con bắt đầu vào một ngày chớm Đông
năm Đinh Mão. Ngày ấy con theo chân Mẹ bước qua cái cổng Tam
quan cũ kỹ của chùa Hưng Khánh để bắt đầu cuộc hành trình của
một người xuất gia học đạo. Và con được gần Sư Ông kể từ những
ngày tháng đó…
Con còn nhớ rõ lắm. Lần đầu tiên gặp con, Sư
Ông hỏi: “Con vô chùa làm gì?”; con trả lời: “Con muốn
xuất gia, tu học.”; Sư Ông cười nói: “Vậy ‘da’ (gia) con
bị ‘sứt’ (xuất) chỗ nào?”… con không biết trả lời sao, chỉ
biết mỉm cười. Ngày con mới bắt đầu những bước chân sơ cơ ở chốn
Thiền môn, chùa Hưng Khánh chỉ có mỗi một cuốn Kinh Nhật Tụng,
khi học Kinh phải chép tay ra giấy để học. Con học thuộc Đại Bi,
Thập Chú, v.v. trong thời gian rất ngắn. Phần thưởng những ngày
đầu xuất gia Sư Ông dành cho con là một cuốn Nhật Tụng mới tinh
từ Phổ Bảo mang về. Với con ngày ấy, được cuốn Kinh Nhật Tụng
như Đường Tăng trong Tây Du Ký được chân Kinh!
Một năm sau, chùa có thêm chú Dũng. Sư thúc
Đồng Văn từ Sài Gòn về ăn Tết bắt hai chú tiểu Hưng Khánh phải
đi cắt tóc thật ngắn. Sư Ông từ Phổ Bảo về, hai đứa lên đảnh lễ…
Sư Ông nhìn thật lâu rồi nói: “Chùa này nuôi hai điệu nhưng
trái ngược nhau: một mập một ốm, một đen một trắng, một Đại Hàn
một Ấn Độ…” (vì tóc con cắt ngắn ai cũng nói nhìn giống Đại
Hàn). Và cái tên “Thằng nhỏ Đại Hàn” cũng được Sư Ông gọi
con kể từ ngày đó.
Những năm cuối của thập niên 1980, đời sống
quê mình còn nhiều cơ cực, cơm ăn không đủ no thì sao dám nghĩ
đến chuyện áo ấm. Phần con chỉ có 2 bộ đồ vạc-khách để thay nhau
những lúc đến trường. Sư Ông thương, gần Tết đem bộ đồ Phật tử
Sài Gòn mới dâng cúng đưa cô Tám Nghĩa và dặn: “…chỉnh rộng
rộng một chút để năm sau chú mặc còn vừa… Thằng nhỏ ở tuổi đang
phát triển”. Sau Tết năm ấy, con mặc bồ đồ mới đi học với
một niềm vui khó tả. Tấm hình chụp con mặc bộ đồ ấy giờ vẫn còn
ở bên con!
Ngày con xuống Phổ Bảo, theo lời dặn của cô
Hai (má Thầy Đồng Văn), con quỳ đảnh lễ Sư Ông trong lúc Sư Ông
đang cùng Phật tử cắt đám ruộng trước ngõ chùa. Lúc ấy Sư Ông
chỉ nói bốn tiếng: “Tội nghiệp thằng nhỏ”… và rươm rướm
nước mắt cầm tay con dắt vào chùa… Những ngày ở Phổ Bảo, Sư Ông
dạy con từng cử chỉ, oai nghi tế hạnh mà một Sa Di miền Trung
cần phải có: từ những gì trong quyển Hạ của “Sa Di Luật Nghi
Yếu Lược” đến những hành vi nhỏ như cách lạy Phật, đánh từng
tiếng chuông, cắm từng cây hương…
Hết Trung học, con vào Sài Gòn để tiếp tục
việc học. Trước ngày rời quê hương Bình Định, Sư Ông viết một
bức thư tay và dặn con khi vào chùa Giác Uyển nên đưa trực tiếp
lá thư ấy cho ‘Bố’ Huệ Minh… Con không biết nội dung viết gì
trong đó, nhưng với con bức thư ấy như một cái chiếu khán ưu
tiên đặc biệt (priority visa) để con bắt đầu những năm tháng
trưởng thành ở đất Sài Gòn.
Những năm tháng con theo học Đại học ở miền
Nam, vì theo học ngành Báo chí nên con giao du với khá nhiều bạn
bè, nhất là nhiều bạn nữ học cùng trường Đại học Xã hội & Nhân
văn hay đến chùa cùng ôn bài vở. Sư Ông sợ con tiếp xúc nhiều
với nữ giới ‘vướng trần duyên’, rời bỏ chí nguyện của người xuất
gia, nên lần nào Sư Ông vào Sài Gòn cũng gọi con lên nhắc khéo
câu: “…Ông thấy con dạo này ‘mất an ninh’ lắm rồi đó nghen…”
Mùa hè năm 2000, sau khi được Đại học Delhi -
Ấn Độ gởi thư thông báo nhập học, con về lại Phổ Bảo một tuần để
sống gần Sư Ông và ôn lại thời làm điệu trước ngày rời xa quê
hương tham học. Trước lúc vào lại Sài Gòn để sang Ấn Độ, con
đảnh lễ cáo biệt Sư Ông để lên đường, Sư Ông dặn con nhiều lắm,
nhưng điều làm con nhớ mãi là: “…Học gì cũng được nhưng cố
gắng dùng sở học của mình để phụng sự Tam-Bảo, giáo hội. Nếu có
cởi áo hoàn tục thì đừng về đây gặp Sư Ông. Sư Ông không trách
chuyện hoàn tục, nhưng Sư Ông quen nhìn mấy đứa con từ nhỏ đến
giờ trong chiếc áo của một người tu rồi. Nếu thấy tụi con mặc
chiếc áo nào khác đau lòng lắm!”… Con ra tháp Tổ thắp hương,
nhìn lên mấy cây xoài trong vườn chùa năm nào cũng trỗ bông thật
nhiều nhưng “đậu quả” đâu có bao nhiêu… Sau này trên chuyến bay
đến nước Mỹ, con không sao cầm được nước mắt khi chứng kiến ánh
mắt của con gấu trắng Bắc cực buồn tênh, bất lực khi nhìn chú
gấu con trưởng thành hững hờ xa dần gấu mẹ…trong cuốn phim về
đời sống động vật hoang dã được chiếu trên chuyến bay ấy… Và hôm
nay, nhìn lại những lớp đệ tử - pháp tôn của Phổ Bảo - Hưng
Khánh ai còn, ai mất sau những lần “rơi rụng” theo những lớp
sóng thời gian và thế cuộc… Nghe có chút gì đó chạnh lòng!
Tình thương của Sư Ông không chỉ dành cho
Tăng chúng, cho con người; mà ngay cả những sinh vật hữu tình Sư
Ông cũng hết mực thương yêu. Sư Ông gọi những con vật nuôi trong
chùa theo thứ tự “cu anh”, “cu em”, “cu tý”…
Vì với Sư Ông, con vật cũng có tánh linh của nó, cũng như con
người sống cần có tình thương, chỉ có điều chúng ta không thể
nghe và hiểu được ngôn ngữ của chúng. Nhớ hồi đó, năm nào Sư Ông
cũng về Hưng Khánh đón Tết. Đến giao thừa, con và Dũng phụ trách
phần chuông trống Bát-Nhã, thời gian còn lại hai đứa nhặt pháo
rơi đốt và ném vào “cu bi, cu đen, cu mực”. “Ba
đứa…bi, đen, mực” sợ pháo bỏ chùa xuống “trốn” ở nhà Bà Tám.
Sư Ông đi tìm và dắt “ba đứa” về chùa rồi chỉ vào hai đứa
con, cười nói: “Hai chú điệu ham vui này làm “ba đứa” sợ bỏ
chùa phải không?”… Ngày Sư Ông sang Ấn Độ chiêm bái các
Thánh tích Phật giáo, khi về đến New Delhi, Sư Ông gọi điện về
chùa dặn các chú điệu chăm sóc “mấy đứa nhỏ: cu anh, cu em,
cu tý…”. Những ngày ở Delhi, Sư Ông nghỉ tại phòng 429 ký
túc xá Mansarowar. Một buổi sáng ba Ông cháu ngồi uống trà, Sư
Ông kể lại giấc mơ đêm trước nhìn thấy “cu tý bay qua Ấn Độ,
leo lên cái giường gỗ của ký túc xá liếm chân Sư Ông”. Mấy
ngày sau đó, khi Sư thúc Đồng Văn đưa Sư Ông về đến Sài Gòn thì
hay tin “cu tý” đã ‘ra đi’ vào chính cái hôm Sư Ông nằm
mơ…sau hơn hai tuần bỏ ăn nằm trước cổng chùa đợi Sư Ông về.
Con rời xa quê hương Bình Định gần 18 năm,
bôn ba nơi đất khách quê người tại hải ngoại gần một vòng của 12
con giáp; nên ít khi được hầu cận Sư Ông. Mỗi lần có dịp về lại
Tổ Đình Phổ Bảo con đều nhận được những lời chỉ giáo chân tình
và đạo vị từ Sư Ông. Sư Ông vốn ít nói, nhưng lời nào phát xuất
từ Sư Ông cũng phảng phất đạo tình và ưu tư cho cơ đồ Giáo hội,
cho Đạo mạch Tông môn. Sư Ông ít phiên dịch, trước tác để viết
lại những tác phẩm lưu truyền cho hậu thế, nhưng những lời đạo
từ của Sư Ông trong những dịp an cư kiết hạ, tết Nguyên đán,
trong các cuộc họp của Thiền phái Chúc Thánh… luôn là pháp ngữ -
đạo ngôn, là khuôn vàng thước ngọc cho đàn hậu tấn của sơn môn
noi theo. Và những lời nói ấy chỉ có thể xuất phát từ các bậc Tổ
Đức Tôn Sư. Với con những lúc ấy Sư Ông là hiện thân của Bồ Tát,
thể hiện đầy đủ oai phong của một bậc Đại sĩ giáng trần!
Lần cuối, con đảnh lễ Sư Ông trước khi trở
lại Hoa Kỳ để tiếp tục cuộc hành trình của một người xuất gia,
Sư Ông dạy: “Với Ông, cho dù có lấy được mười tấm bằng Tiến
sĩ cũng không trân quý và lợi lạc bằng một bậc chân tu, mô phạm
trong đời.” Lời dạy cuối cùng của Sư Ông có lẽ sẽ là phương
châm sống cho con trong cuộc hành trình còn lại!
…Ngày tứ chúng Phật tử nơi quê nhà ngậm ngùi
tiễn đưa nhục thân Sư Ông nhập bảo tháp, bên này bờ đại dương
con bảo mấy anh thợ nghỉ sớm và dựng giúp con một bàn thờ tạm
trong ngôi chánh điện đang thi công. Con ngồi đó trước di ảnh Sư
Ông trong ngôi chánh điện còn dang dở của Phổ Hưng Đạo Tràng,
niệm Phật suốt 4 giờ đồng hồ. Con niệm Phật bằng tất cả sự chí
thành, chuyển tất cả những ngậm ngùi, thương nhớ thành năng
lượng tâm linh hướng về Sư Ông trong giờ phút tiễn biệt Sư Ông
về với đất mẹ ngàn thu. Trời Georgia hôm ấy mưa nặng hạt, những
chuyến bay thay nhau vần vũ trên bầu trời Atlanta… Buồn tênh,
bất lực!
…Hôm nay, ngoài kia những bông hoa Dogwood nở
trắng cả đạo tràng, những cánh hoa rơi rụng phủ trắng khuôn viên
Phổ Hưng. Hoa trắng tinh khôi hay hoa nhuốm màu tang trắng để
nói lời chia ly với bậc Đại Sĩ Xuất Trần vừa tạ từ trần thế!
Nắng và
gió giữa khung trời Atlanta như cũng đang bàng hoàng, thổn thức
tấu lên khúc biệt ly! Con ngồi đây với những chuỗi
ký ức về Sư Ông - đấng Tôn Sư Thạc Đức vừa theo chư Tổ quảy dép
về Tây - để viết lại những dòng tưởng niệm này với tất cả tâm
thành kính. Ngưỡng nguyện giác linh Sư Ông thuỳ từ chứng giám!
Thành tâm kính nguyện giác linh Sư Ông:
Chu du Thế giới Ba ngàn an nhiên tự tại,
Dạo chơi Tây phương Tịnh Độ vô ngại thong
dong!
Nhất Tâm Đảnh Lễ Từ Lâm
Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế Phổ Bảo - Hưng Khánh Đường Thượng
Húy thượng THỊ hạ HUỆ, Tự HẠNH GIẢI, Hiệu BẢO AN Đại Lão Hòa
Thượng Giác Linh
Cung kính,
Con, Tỳ kheo THÍCH GIÁC
HẠNH
Atlanta – Hoa Kỳ, mùa
hoa nở năm Tân Mão – 2011
* Bài & ảnh =>
http://phatgiaodaichung.com/Bai2011/001tuongniemtonsu.htm