Nhà văn và nhà hoạt động xã hội Nga Daniel Granin - Ảnh: internet
Tôi nhỏm dậy thật khó khăn, loạng choạng tìm tới một lối về nhà gần
nhất, cố lau máu bằng khăn tay. Tôi cảm thấy bị choáng, mỗi lúc một đau
hơn và phải làm một cái gì đó thật nhanh. Nhưng tôi không nói được -
miệng cũng bị toác ra.
Tôi đi trên đường phố, cố giữ đừng chuệnh choạng. Tôi nhớ rõ đoạn đường
này - chừng bốn trăm mét gì đó. Trên đường phố còn đông người. Tôi gặp
một người đàn bà dắt đứa con gái, một cặp nam nữ, một người đàn bà đứng
tuổi, một người đàn ông, mấy anh chàng trẻ tuổi, tất cả lúc đầu tò mò
nhìn tôi, sau đó đưa mắt về phía khác và tránh ra. Chỉ cần có ai đó trên
đường đến với tôi, hỏi tôi có cần giúp đỡ gì không. Tôi còn nhớ rõ
khuôn mặt của nhiều người - tôi mong chờ ở họ một sự giúp đỡ.
Cơn đau làm ý thức tôi rối loạn, nhưng tôi hiểu rằng nếu như bây giờ tôi
có nằm xuống vệ đường, thì họ cũng lặng yên bước qua người mà đi. Cần
phải đến được nhà mình. Nhưng chẳng có ai giúp tôi cả.
Về sau tôi có nghĩ lại chuyện này. Có lẽ người ta cho tôi say rượu
chăng? Hẳn là không, lẽ nào tôi lại gây ra ấn tượng ấy được? Mà dù người
ta có thấy tôi say rượu đi chăng nữa, thì họ cũng đã thấy cả người tôi
đầy máu me, thấy tôi ngã xuống, tại sao họ lại không giúp đỡ, không hỏi
xem chuyện gì đã xảy ra với tôi? Bỏ đi qua, không dính dáng gì, không để
mất thời gian, sức lực, "chẳng đụng gì tới tôi cả" đã trở thành một ý
thức quen thuộc rồi chăng?
Khi nhớ lại những con người đó với nỗi cay đắng, lúc đầu tôi tức giận,
tôi lên án, tôi thắc mắc, rồi sau đó tôi nghĩ tới bản thân mình. Và tôi,
cũng tìm thấy ở ngay trong hành vi của mình một cái gì giống thế. Khi ở
trong cảnh hoạn nạn, trách người khác thì dễ, nhưng nhất thiết phải nhớ
lại chính bản thân mình. Tôi không thể nhớ ra mình đã gặp đúng một
trường hợp như vậy không, nhưng có một cái gì đó giống thế - muốn bỏ đi,
tránh xa, không dính đến - đã xảy ra cả với tôi. Thấy rõ mình rồi, tôi
hiểu ra rằng trong cuộc sống chúng ta, cái ý thức ấy đã quen thuộc đến
mức ăn sâu mất rồi.
Tôi không muốn lại phàn nàn về sự suy đồi của phong hóa. Nhưng mức độ
suy đồi ấy buộc phải suy nghĩ. Không cá nhân nào có tội về điều đó cả.
Buộc tội ai? Tôi nhìn quanh - không tìm ra những nguyên nhân nhìn thấy
được.
Thế thì cái gì đã xảy ra với chúng ta? Làm sao chúng ta đã đi tới chỗ
đó, làm sao từ tính nhạy cảm bình thường lại đi tới chỗ dửng dưng, hờ
hững và điều đó cũng lại trở thành bình thường được?
Tôi không có ý định nêu lên tất cả những nguyên nhân khiến cho lòng
tương thân tương trợ, ý thức nghĩa vụ đối với nhau bị suy yếu đi, nhưng
tôi nghĩ rằng trong phần lớn trường hợp, điều đó đã bắt đầu từ những sự
bất công xã hội khác nhau, khi mà dối trá, khoe khoang, ích kỷ hoành
hành không bị trừng phạt. Điều đó xảy ra trước mắt mọi người và đã tác
động một cách nguy hại nhất đến sức khỏe tinh thần của con người. Sự
dửng dưng cũng xuất hiện và bám sâu đối với cả công việc của mình, người
ta bỏ mất đi mọi điều cấm - "tại sao tôi lại không thể được?".Thế là
bắt đầu nảy nở cái mà bây giờ chúng ta gọi một cách nhẹ đi là hờ hửng,
dửng dưng.
Đương nhiên điều đó không thể không có ảnh hưởng tới quan hệ giữa những
người trong tập thể, tới tính đòi hỏi lẫn nhau, tới sự tương trợ. Sự giả
dối len cả vào gia đình - tất cả gắn liền với nhau vì đạo lý con người
không thể làm bằng những qui tắc riêng lẻ của cuộc sống. Và cái tinh
thần đoàn kết, tương thân tương trợ, săn sóc lẫn nhau đã được giữ lại từ
chiến tranh, cái tinh thần thống nhất của nhân dân ấy đã bị xói mòn đi.
Bà mẹ một người quen của tôi bị ốm, Bà phải mổ. Người quen của tôi nghe
nói phải "lót tay" cho bác sĩ? Anh ta là một người cam chịu, và nỗi lo
lắng về bà mẹ càng làm cho anh ta cam chịu hơn, anh ta mượn cớ phải đưa
tiền mua thuốc men của mẹ để đề nghị đưa cho bác sĩ 25 rúp. Bác sĩ khoát
tay nói: "Tôi không lấy chừng ấy". "Phải, bao nhiêu ạ?, - "Gấp mười".
Người quen của tôi là một kỹ sư thường không giàu có gì, nhưng đây là
chuyện sức khỏe của mẹ nên đành phải chạy tiền, bỏ vào phong bì và đưa
cho bác sĩ một cách xấu hổ, còn người kia thì bình thản rút ra và đếm
lại.
Sau khi mổ, bà mẹ chết. Bác sĩ giải thích cho người quen của tôi: "Tôi
đã kiểm tra lại, mẹ anh chết không phải vì mổ, tim bà không chịu nổi, vì
thế tôi vẫn lấy tiền" - anh ta nói với vẻ rất tin vào thái độ ngay ngắn
của mình: nếu người phụ nữ kia chết vì mổ, anh ta sẽ trả lại tiền.
Tôi kể lại trường hợp này không phải vì nó đặc biệt, mà vì người ta không cho nó là đặc biệt.
Một phụ nữ ly hôn với chồng và đòi được trợ cấp qua tòa án. Tòa đồng ý.
Nhưng đứa con lại ở với bố mẹ chồng, còn người mẹ ấy thậm chí không nghĩ
tới việc đưa con về với mình để chăm sóc nó và vẫn cứ nhận trợ cấp đều
đặn. Tiếc thay, ngày càng có nhiều trường hợp các bà mẹ từ bỏ con mình.
Trước kia đó là những trường hợp cá biệt làm kinh ngạc mọi người. Bây
giờ thì người ta đã chấp nhận chúng là thường tình.
Những sự bàn cãi dông dài của chúng ta về đạo đức thường mang tính chất
chung chung. Mà đạo đức thì lại gồm những điều cụ thể: những ý thức,
những thuộc tính, những khái niệm nhất định.
Một trong những ý thức đó là lòng nhân từ. Đối với số đông từ ngữ ấy là
lỗi thời, bây giờ không mấy ai nói, thậm chí còn bị cuộc sống chúng ta
đánh bật đi. Như một thuộc tính nào đó chỉ có trước kia, ngay trong từ
điển cũng ghi là "cổ" tức là những khái niệm lỗi thời.
Ở Lêningrat, tại quần đảo Aptêca, xưa kia có một đường phố Nhân từ. Cái tên ấy bị coi là lỗi thời cả đối với một đường phố, người ta thay bằng tên đường Thợ dệt.
Không phải ngẫu nhiên mà các từ ngữ cũ đi. Nhân từ - sao, không đúng mốt, không cần thiết nữa chăng?
Tước bỏ lòng nhân từ ấy đi là tước bỏ của con người một trong những biểu
hiện quan trọng nhất của đạo đức. Cái ý thức tất yếu cổ xưa ấy là thuộc
tính của mọi cộng đồng sinh vật: thương xót những kẻ bị đày đọa và đau
khổ. Tại làm sao ý thức ấy ở nước ta đã bị mất dần đi, héo tàn đi, bị
vất bỏ đi? Người ta có thể phản đối tôi bằng cách viện dẫn ra không ít
những ví dụ về sự nhạy cảm, sự thông cảm, về lòng nhân từ chân chính cảm
động. Những ví dụ ấy có thật, thế nhưng chúng ta vẫn cảm thấy từ lâu
rồi lòng nhân từ đã ra khỏi cuộc sống chúng ta. Giá như có thể tiến hành
một cuộc nghiên cứu xã hội học về ý thức ấy...
Thảm kịch mới đây ở Trecnôbưn đã làm chấn động nhân dân và tinh thần
nhân dân. Tai họa làm xuất hiện ở nước ta những ý thức tốt lành nhất,
nồng nhiệt nhất, người ta được kêu gọi giúp đỡ và đã giúp đỡ bằng tiền,
bằng tất cả những gì có được. 530 triệu rúp đã được tự nguyện góp vào
quỹ giúp đỡ những người bị tai nạn ở Trecnôbưn. Đó là một con số lớn -
nhưng điều chủ yếu là sự hưởng ứng tinh thần: người ta tự mình đi tìm
những đứa trẻ, đón những nạn nhân về nhà mình, chia sẻ mọi thứ cho họ.
Một sự hưởng ứng như vậy cũng thấy xuất hiện khi có những tai nạn mới
đây ở Grudia, nơi xảy ra tai nạn núi lở, lụt lội. Tất nhiên, đó là biểu
hiện lòng nhân từ của toàn dân mà bao giờ nhân dân ta cũng có: bao giờ
người ta cũng giúp những người bị cháy nhà, bao giờ người ta cũng giúp
nhau khi bị đói kém, mất mùa...
Nhưng Trecnôbưn, động đất, lụt lội là những hoàn cảnh tai họa. Lòng nhân
từ và thông cảm cần phải có thường xuyên hơn trong đời sống bình
thường, hằng ngày, của người này đối với người khác. Sự sẵn sàng thường
xuyên giúp đỡ nhau có thể được giáo dục bằng sự đòi hỏi, bằng sự nhớ tới
những người thường xuyên cần đến điều đó.
Tôi tin chắc rằng con người đẻ ra cùng với năng lực thông cảm với nỗi
đau của người khác. Tôi cho đó là một ý thức bẩm sinh, được đem lại cho
chúng ta cùng với những bản năng, với tâm hồn. Nhưng nếu như ý thức ấy
không được dùng, không được tập luyện, thì nó sẽ bị yếu đi và bị teo đi.
Lòng nhân từ có được tập luyện trong cuộc sống chúng ta không? Có cái gì
thường xuyên buộc có ý thức ấy không? Chúng ta có thường được kêu gọi
phải có ý thức ấy không?
Tôi nhớ lại thuở còn thơ, bố tôi khi đi ngang qua những kẻ ăn mày, mà
hồi đó những kẻ ăn mày thì lại rất nhiều, họ mùa lòa, què quặt, hoặc chỉ
là những kẻ ăn xin trên các chuyến tàu, ở các nhà ga, ở các chợ - bố
tôi bao giờ cũng đưa cho tôi mấy đồng tiền và nói: Con cho họ đi! Thế là
tôi vượt qua nỗi sợ hãi - những kẻ ăn mày thường có bề ngoài đáng sợ -
đem cho họ tiền. Đôi khi tôi còn phải vượt qua sự tiếc nuối nữa - tôi
muốn giữ lại những đồng tiền ấy cho mình, gia đình chúng tôi cũng nghèo.
Bố tôi thì không bao giờ xét xem họ có giả vờ hay không, có thật què
hay không. Ông không hề chú ý tới điều đó: đã có kẻ ăn mày thì phải cho.
Bây giờ tôi mới hiểu rằng đó là sự tập luyện lòng nhân từ. Không có điều đó thì ý thức ấy không thể sống được.
Bây giờ, ở nước ta không có ăn mày, thật là tốt. Nhưng vẫn phải có những
hình thức khác bắt buộc biểu hiện lòng nhân từ của con người. Không
phải để tập, mà vì rằng trong cuộc sống chúng ta có không ít những người
cần được thông cảm và giúp đỡ.
Sau lần ngã ấy, tôi phải nằm bệnh viện. Đó là một bệnh viện thành phố,
cũ và rất bình thường, một bệnh viện "cấp cứu". Vì nó cũ nên trông cũng
không bình thường lắm, trông thật đáng sợ (đến nay cũng thế). Nhà cửa ọp
ẹp, sàn gác lung lay, nước nóng không có, chuột chạy lung tung. Tôi sẽ
không nhắc đến tên bệnh viện ấy. Vì ở đó có những thầy thuốc tuyệt vời.
Tôi không muốn họ thấy khổ sở, vì nói chung họ mới cảm thấy khổ sở chứ
không phải là những người phụ trách.
Đêm đêm, không ngủ được vì đau, tôi lang thang dọc hành lang. Cái hành
lang dài ấy ngổn ngang những giường bệnh và bệnh nhân. Trong các phòng,
không đủ chỗ. Đàn ông, đàn bà nằm lộn xộn - họ rên rỉ, càu nhàu. Người
thì yêu cầu được đỡ ngồi lên, người thì yêu cầu được uống nước.
Tôi nhớ lại một bệnh viện tiền phương sau trận đánh. Một người đàn bà
già gọi tôi lại. Bà yêu cầu tôi ngồi cạnh. Bà than thở cùng tôi về những
người thân ở xa, về cuộc sống khó khăn và cô quạnh hiện nay của mình.
Bà nắm lấy tay tôi. Im lặng. Tôi tưởng bà ngủ thiếp đi, hóa ra bà đã
chết. Bàn tay bà cứng đờ.
Ở mặt trận, tôi chạm mặt với đủ mọi cái chết. Việc có những người chết ở
bệnh viện là điều không tránh khỏi được. Nhưng cái chết ấy làm cho tôi
sững sờ. Người đàn bà ấy đã gọi một người xa lạ tới, không cần biết đó
là ai, đau đớn vì sự cô quạnh trước khi chết. Đó quả là một cảm giác
không thể chịu đựng nổi. Một sự trừng phạt đáng sợ, vì lẽ gì không biết.
Chỉ cần có một ai đó để tựa vào. Làm sao có thể kết hợp được sự quan
tâm đối với con người, chế độ y tế không mất tiền, chủ nghĩa nhân đạo,
tính tập thể của cuộc sống với tình cảnh một con người - sau khi đã làm
việc suốt đời mình, phải hấp hối trong sự từ bỏ ấy? Đó không phải là
điều xấu hổ, là sự nhục nhã, là tội lỗi chung của chúng ta? Chính trong
những giây phút ấy, lòng nhân từ được kiểm nghiệm như trình độ nhân đạo
của xã hội.
Tất nhiên, tình cảnh mà các bệnh viện thành phố thông thường của chúng
ta bị dồn vào, thật nặng nề hết sức. Tiền lương quá thấp của những người
y tá, công việc nặng nhọc, dơ bẩn - cho ăn uống, giúp trở mình, lau
dọn, mang đi mang về các thứ. Thật là không bình thường khi bệnh viện
"Cấp cứu" ấy luôn luôn chật chội, lại không đủ thiết bị y tế. Nhưng
ngoài tất cả những điều đó ra, người ta không đi làm y tá - cái nghề
không co uy thế, và lòng kính trọng đối với sự hiền dịu, thiêng liêng,
thương cảm đã biến mất, những cái đó vốn đã từng làm cho sự chăm sóc
người bệnh thành một đặc quyền của tấm lòng chân tình phụ nữ. Có lẽ hiện
nay y tá, hộ lý là công việc thương yêu con người nhất, đó là những
phẩm chất tâm hồn con người ngự trị và chiến thắng chứ không phải là học
vấn. Đó chính là nơi đòi hỏi sự chịu đựng, lòng tốt, sự dịu dàng mà
toàn bộ y học chỉ còn thiếu có thế!
Thanh niên vui vẻ hưởng ứng những lời kêu gọi đi khai hoang đi xây dựng
BAM, đi tới những công trường lớn và nhỏ. Nhưng chưa có ai kêu gọi họ đi
an ủi những người đau khổ, đi nâng những người bị ngã bằng tâm hồn
mình, đi chữa những người bệnh bằng sự săn sóc của mình. Chắc chắn sẽ
tìm được những người muốn làm công việc mình, họ sẽ đi tới các bệnh viện
giống như trong thời gian chiến tranh đã có những người đến đó và làm
nên những phép lạ. Đó là hồi chiến tranh - người ta sẽ phản đối tôi như
vậy. Nhưng bây giờ con người vẫn đang đau khổ, và ngày nay cuộc sống con
người cũng vẫn quý giá và mỏng manh như thế.
Lòng nhân từ bị xói mòn đi không phải ngẫu nhiên. Trong thời kỳ thủ tiêu
Culắc, trong những năm đàn áp hàng loạt, người ta không được cho phép
giúp đỡ những người thân, những người láng giềng, những gia đình của các
nạn nhân. Người ta không cho con cái những kẻ bị bắt, bị đày trú ngụ.
Người ta bị buộc phải tán thành những sự kết án tàn khốc. Ngay cả sự
thông cảm với những người vô tội bị bắt cũng bị cấm. Những thái độ như
lòng nhân từ bị đánh giá là đáng nghi ngờ, thậm chí là có tội: nào là vô
chính trị, nào là phi giai cấp, nào là ngăn cản và làm nguôi căm thù
trong thời đại đấu tranh... Nó không được có mặt trong nghệ thuật. Lòng
nhân từ thật ra đã có thể ngăn cản được tình trạng thiếu pháp chế, đàn
áp khắc nghiệt v.v... Trong những năm 30, 40, khái niệm ấy đã biến khỏi
ngôn từ chúng ta.
Trong bài thơ đề tặng "Bức tượng nhỏ", mà mỗi từ trong đó đều rất chín
chắn, Puskin đã tổng kết những công lao của thơ ca mình bằng một công
thức cổ điển:
Và rồi nhân dân còn thương yêu tôi lâu dài,
Vì tôi đã đánh thức lòng tốt bằng thơ tôi,
Vì trong thời đại nghiệt ngã của tôi, tôi đã ca ngợi tự do.
Và kêu gọi lòng thương những người ngã xuống. Dù có giải thích câu cuối
cùng thế nào đi nữa, trong mọi trường hợp nó vẫn là kêu gọi rõ ràng cần
phải có lòng nhân từ. Chỉ cần theo dõi kỹ, cũng thấy rõ cả trong thơ ca
cũng như trong văn xuôi của ông, Puskin đã kiên trì đề tài ấy. Từ bữa
tiệc của Piôt Đại đế, từ "Người con gái viên đại úy", "Phát súng",
"Người coi trạm" - lòng thương đối với những người ngã xuống đã trở
thành một nhu cầu đạo đức đối với văn học Nga, một trong những nghĩa vụ
cao nhất của nhà văn. Suốt cả thế kỷ XIX, các nhà văn Nga đã kêu gọi
phải nhìn thấy con người có tâm hồn trung hậu, đáng yêu và đáng trọng,
trong người viên chức hạng cuối, người coi trạm ấy, di huấn của Puskin
về lòng thương những người ngã xuống đã thấm sâu vào sự sáng tạo của
Gôgôn và Tuốcghêniep, Nêcraxôp và Đôxtôiepxki, Tônxtôi và Kôrôlencô,
Tsêkhôp và Lexcôp.
Các cuộc cải tạo xã hội của chế độ mới hình như sẽ tạo ra một vương quốc
chung của bình đẳng, tự do và bác ái, của những người bình thường hạnh
phúc. Nhưng mọi cái hóa ra phức tạp hơn. Văn học phải sống trong những
cánh cửa đóng kín, bị niêm phong, những đề tài bị cấm đoán, những chiếc
tủ sắt.
Các giai đoạn lịch sử quan trọng nhất của cuộc sống chúng ta đã trở
thành những thứ không đụng tới. Thêm vào đó là tình trạng bất công xã
hội và những điều mà mọi người phải đôi khi chịu đựng vì quyền lực của
những kẻ có của: Lăng nhục, tước đoạt, đểu cáng - mà việc mô tả thường
bị xem xét, bị hạn chế nghiêm ngặt.
Và có lẽ trong văn học thời chiến tranh, đề tài về tính nhân đạo, về lòng nhân từ mới vang lên đặc biệt mạnh mẽ và liên tục.
Kêu gọi lòng thương những người ngã xuống - giáo dục ý thức ấy, quay lại
với nó, kêu gọi nó - là một sự cần thiết cấp bách. Tôi tin chắc rằng
nền văn học chúng ta, hôm nay lại càng vậy, không thể từ bỏ di huấn của
Puskin. Phải tháo niêm phong các cánh cửa ra. Lịch sử không thể nào chia
cắt được. Không thể rút ra từ đó chỉ có những gì ngọt ngào, xán lạn.
Những nỗi đau buồn của lịch sử chúng ta, cả trong chiến tranh cũng như
sau chiến tranh, vẫn còn chờ được nhớ lại - không phải để bồi hoàn, mà
là để thông cảm, để thừa nhận. Tôi vui mừng vì nghĩa vụ ấy đang được
thực hiện, mỗi người một cách. Không thể đánh giá điều tốt lành và sự
vận động thực hiện của những biến đổi hiện nay tách rời khỏi tất cả
những gì nặng nề, thiếu nhân từ mà cha ông chúng ta cũng như chính bản
thân chúng ta đã phải nhận lấy. Minh oan trước pháp luật là một việc, mà
bày tỏ lòng cảm phục những ai đã đau khổ một cách vô tội lại là một
việc khác. Sự công bằng lịch sử có ý nghĩa rất nhiều đối với sức khỏe
tinh thần. Có biết bao nhiêu cháu chắt của họ đang mơ ước cái chết của
cha ông mình không bị lặng thinh! Đó là nhân từ đối với những người đã
khuất, cũng như đối với chúng ta, những người đang sống.
Mới đây tôi đọc cuốn sách "Về mọi sinh vật - lớn và nhỏ". Tác giả của nó
là một bác sỹ thú y nông thôn Anh. Một cái nghề rất khiêm nhường, người
ta hiếm khi viết về nó. Cuốn sách viết lại công việc của một bác sỹ thú
y, kể lại ông ta tới các nông trại Ioocsia, phục vụ gia súc, chim
muông, thăm bệnh chó và mèo như thế nào. Chữa bệnh cho động vật là một
công việc khó nhọc, thường là nguy hiểm, tác giả không kêu gọi gì hết,
không đạo đức hóa gì hết, nhưng chính ở đó mới thấy rõ sức mạnh của câu
chuyện không có gì giả tạo.
Đọc cuốn sách ấy, tôi không khỏi xấu hổ nhớ tới những bầy chó lang thang
ở các vùng ngoại ô - kết quả của sự nghiệt ngã và thói ích kỷ của chúng
ta, và tôi nghĩ rằng không phải vô cớ mà chúng ta đã có thái độ mỉa mai
đối với các Hội bảo vệ động vật đang được lập ra trên thế giới. Tôi
nghĩ rằng sự phát triển ý thức đạo đức của xã hội buộc phải xem xét lại
những điều mà trước kia chúng ta loại bỏ khỏi đường đi của mình, những
hình thức đời sống xã hội nào đó mà ngày nay có thể sử dụng được.
Chẳng hạn, đó là những hình thức từ thiện. Kinh nghiệm của nước Nga
chúng ta, và cả phương tiện phương Tây nữa, đáng được chú ý. Nhận trợ
cấp tư nhân không hiểu tại sao ở nước ta lại bị coi là không thích hợp,
thậm chí là thấp hèn. Một quy ước về đạo đức xã hội chủ nghĩa của chúng
ta dường như đã hình thành như thế này: đau khổ vì cô đơn - không thích
hợp; cô đơn không phải là một trạng thái thuộc tính của người Xô viết.
Bất hạnh là không thích hợp. Nghèo nàn - cũng vậy. Thế nhưng cô đơn là
một tai họa không phải chỉ của người già mà còn là của người trẻ tuổi,
nó tuyệt nhiên không phải là ngẫu nhiên, không phải là hậu quả của tính
cách xấu xa v.v... Còn nghèo nàn? Người ta nhún vai khi nghe nói điều
đó, vì ở nước ta không có kẻ nghèo, và nếu có bắt gặp họ thì cũng chỉ là
vì thiếu một sự quan tâm nào đó và đó là mối quan tâm của nhà nước còn
chúng ta thì chẳng có trách nhiệm gì cả.
Thế nhưng, rõ ràng lòng nhân từ là một điều hết sức riêng tư. Chúng ta
lập ra Quỹ văn hóa, một tổ chức cao cả và cần thiết. Mà đó cũng chính là
lòng nhân từ đối với những tượng đài, những kho tàng lịch sử và văn
hóa. Quỹ văn hóa - thật tuyệt vời, nhưng tại sao chúng ta lại không thể
tự mình hành động như vậy đối với những người đang thiếu thốn? Chẳng lẽ
xã hội chủ nghĩa không phải là một xã hội tương thân tương trợ, thông
cảm lẫn nhau? Rõ ràng là cần phải lập ra những hình thức tổ chức để giúp
đỡ và quan tâm lẫn nhau trừ những kẻ bị xử tử hình. Ở nước ta có nạn
nghèo khổ che đậy, nạn nghèo khổ rụt rè. Có những người nghèo khổ chắc
sẽ vui mừng khi được giúp đỡ nhưng tự chúng ta còn rụt rè hoặc không
biết tới. Có những bệnh nhân mãn tính, có nhiều tai họa khác nhau đòi
hỏi một sự giúp đỡ tế nhị. Sự giúp đỡ ấy cần cho cả những ai có thể giúp
đỡ, muốn giúp đỡ.
Tôi không có những đơn thuốc để cho sự quan tâm lẫn nhau được biểu hiện
đối với tất cả chúng ta, nhưng tôi tin chắc rằng chỉ có từ sự hiểu biết
chung của chúng ta về vấn đề này mới có thể nảy sinh ra những lối thoát
cụ thể nào đó. Một người - như tôi chẳng hạn - chỉ có thể đánh chuông
cảnh tỉnh và yêu cầu mọi người hiểu thấu điều đó và nghĩ tới việc phải
làm gì để cho lòng nhân từ sưởi ấm cuộc sống chúng ta.
Chúng ta đã ca ngợi tinh thần anh hùng, ca ngợi chiến công của những
người đã khắc phục khó khăn, những chiến sĩ không biết sợ hãi. Nhưng
những tác phẩm về những người không thể vượt qua được sự bất công và
những gánh nặng cuộc đời, về những người suy sụp tinh thần và tuyệt
vọng, - những tác phẩm ấy ở đâu?… Những người như thế có xung quanh ta,
mà văn học thì không với tay tới họ, văn học chỉ lên án và xa lánh những
kẻ sụp đổ. Ý nghĩ cho rằng bất hạnh và đau khổ không phải là thuộc tính
của con người chúng ta đã mạnh đến mức người ta cố mô tả thiên anh hùng
ca về Lêningrat bị bao vây chỉ như một chuỗi chiến công và hành động
anh hùng. Không thể kể lại về Lêningrat như về một thành phố của những
đau khổ chưa từng có của chúng ta mà chiến tranh đã mang lại.
Đổ tất cả tội lỗi cho nền văn học quá cam chịu của chúng ta là quá đơn
giản, - nhưng không thể không nói tới điều đó. Không được quên rằng từ
thời "Sông Đông êm đềm" - lời kêu gọi vĩ đại, xúc động về tình thương
đối với những người ngã xuống ấy - tiếng nói của lòng nhân từ vang lên
ngày càng hiếm hoi. Trong văn học sau chiến tranh của chúng ta, không
thể tìm ra những dòng thông cảm đến với những đám dân bị đưa đi khỏi
mảnh đất quê hương, và rất ít đối với hàng triệu người chịu đựng vô tội
ách chiếm đóng phát-xít, đối với hàng triệu người chịu cảnh tù binh. Văn
học không thể bị tước bỏ quyền thông cảm. Tất nhiên, có thể ẩn đằng sau
cái mốc của lịch sử, có thể cho rằng đã không được viết thì không viết,
nhưng tấm gương của Bugalkov Akhmatôva, Platônôv - hai, ba nhà văn
chứng tỏ rằng có thể không sợ gì cả.
Lòng thương đối với những người ngã xuống đòi hỏi phải có sự dũng cảm và niềm tin của Puskin.
Khi mô-tip ấy đã bắt đầu quay trở lại với văn học những năm gần đây, mọi
người đã lắng nghe nó biết bao! Hãy nhớ tới "Xaska" của Viatrexlay
Kondratiev, hãy nhớ tới những dòng thơ của Voznêxenki, Eptusenkô,
Ôkutgiava, "Tín hiệu tai họa" của Bukôv, và bây giờ cái đề tài được mong
đợi từ lâu ấy - còn được nâng lên ở những tác giả khác, nó thật cần
thiết để cho đời sống chúng ta được người hóa. Cần phải kêu gọi đi, kêu
gọi lại về đề tài ấy để cho lương tâm biết lo lắng, để chữa bệnh điếc
của tâm hồn, để cho con người ngừng ngấu nghiến cuộc sống được ban cho,
không đem đổi nó lấy bất cứ cái gì, và để mất nó đi bằng bất cứ cớ gì.
HUY YÊN dịch
(Theo Báo Văn Học, LX, số 12, 18-3-1987)
(SH27/10-87)
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n12560/Long-nhan-tu.html