Mùa
hè 1969, mới học lớp Đệ nhị mà tôi đã bắt đầu biết ngao du lãng tử rồi.
Khi cha qua đời thì tôi đang rong rêu phiêu bạt ở Nha Trang. Nhận được
điện tín của người bạn từ Đà Nẵng khẩn cấp gởi vào, tôi liền vội vã quy
hồi cố quận. Trên đường về quê xa ngút dặm dài cô lữ, suốt đêm ngồi trên
chuyến xe ngậm ngùi thao thức, sầu nhớ cảm hoài những hình ảnh phụ thân
mà bần thần không sao ngủ được, bèn làm một bài thơ buồn thảm thiết,
trong đó có mấy câu :
Ngày cha mất tôi không về kịp
Thắp nén nhang tưởng niệm trước mộ phần
Gẫm một kiếp người như áng phù vân
Không hiểu được đây là hư hay thực ?
Hồi
đó, mới 17 tuổi nên tôi rất đỗi bàng hoàng, thảng thốt trước lẽ sinh và
tử, hư và thực, có và không… Vì thế, về quê để tang cha xong, tôi lại
tiếp tục lên đường lang thang, sống đời lãng tử không phương hướng.
Đi
và đi và đi mãi như một tên cuồng sĩ. Khi thì lê la ở Huế, Qui Nhơn,
Tuy Hòa, lúc thì lêu lổng ở Pleiku, Ban Mê Thuột, Đà Lạt rồi rong rêu
phiêu hốt tận chốn miền Bảo Lộc, Đồng Nai, Sài Gòn… Đi đến đâu cũng xin
lưu trú ở chùa vài ba hôm, có khi cả tuần nửa tháng, rồi lại tiếp tục
lưu linh lạc địa theo cuộc lữ phiêu bồng không mục đích.
Chính nhờ
ở chùa nhiều mà tôi có dịp tiếp xúc với Thiền học. Tha hồ đọc và đọc
miên man choáng váng, xuất cốt nhập thần theo Bùi Giáng, Phạm Công
Thiện, Tuệ Sỹ, Nhất Hạnh, Trúc Thiên, Huyền Giác, Hoàng Bá, Lâm Tế, Huệ
Năng, Bồ Đề Đạt Ma, Trang Tử, Nguyễn Du, Hermann Hesse, Whitman,
Rimbaud, Henry Miller, Hoelderlin, Nietzsche, Heidegger, Rainer Maria
Rilke, Nikos Kazantzakis, Suzuki, Milarepa, Vivekananda, Krishnamurti,
Duy Ma Cật Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Kim Cang Kinh, Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh... và một ngày hốt nhiên, tôi chợt thấp thoáng thấy được một cõi đi
về.
Thế là đang chới với chơi vơi giữa sóng vỗ vô thường, lênh
đênh trên dòng đời nhấp nhô xuôi ngược không bờ không bến, bất chợt tôi
chuyển một hướng say, trút hết bụi giang hồ xuống bờ biển Nha Trang và
dừng gót phiêu linh nơi chùa cổ Linh Sơn ở Hiền Lương, Vạn Giã.
Ra đi đã đuối mộng tình
Chút thân bèo bọt vô minh bềnh bồng
Nỗi đời lệ chảy trăm sông
Về đâu giữa chốn bụi hồng hoang mê ?
Mang
câu hỏi sinh tử ấy, một ngày tha thiết lặn lội đến gõ cửa Thiền. Duyên
lành may mắn, nhờ ông anh Thiện Tánh giới thiệu, tôi xin xuất gia với
thầy Tịch Tràng, một vị thiền sư đạo cao đức trọng mà ánh mắt nụ cười
bao dung độ lượng đã âm thầm nhiếp dẫn kẻ phong trần lạc lối này về bến
bờ an vui miên viễn của tâm hồn, Thầy trụ trì chùa Linh Sơn, một ngôi
chùa nằm yên tĩnh, tịch mịch bên dòng sông bồng bềnh mây nước, soi bóng
thuỳ dương giữa trời thơ đất mộng, quanh năm rợp bóng dừa xanh ngát và
lồng lộng gió nắng ngàn khơi đại hải từ cửa biển Vạn Giã thổi vào.
Dào
dạt lòng thơ sâu lắng, tôi ném cái ngã điên rồ của mình xuống dòng sông
trước cổng tam quan và bắt đầu thực tập Thiền tông dưới sự hướng dẫn vô
vi, vừa đơn sơ dễ hiểu vừa ẩn mật khôn dò của bậc đạo sư thâm hậu. Thực
sự thầy dùng cách mặc như lôi, im lặng sấm sét, bằng ánh mắt thấu thị,
chan chứa từ bi, để dắt dìu kẻ sơ cơ nhập diệu cõi miền sâu thẳm tâm
linh… Từ từ tự khám phá tự lãnh hội, tự tri tự ngộ và hoát nhiên một
ngày thưởng thức được hương vị cô liêu, thuần nhiên tịch mịch ở ngay
giữa lòng nguyên sơ thanh tịnh của chính mình.
Hình ảnh thanh thản
an nhiên, đạm bạc giản dị, sâu sắc trầm hùng với cung cách khiêm hạ từ
tốn ôn tồn, rộng lượng khoan dung cùng với nụ cười luôn luôn hoan hỷ là
ấn tượng nổi bật nơi vị thầy khả kính mà bất cứ ai ai cũng đều cảm nhận
được như vậy.
Thầy ứng cơ tiếp vật nhẹ nhàng, vô sự như nước chảy
mây bay. Chẳng có chi là quan trọng cả, chẳng có gì là ghê gớm lắm.
Chẳng vô tâm chẳng hữu tâm. Hoà cùng tất cả bước trầm nhiên qua.
Qua
đi một đời. Chơi xong một kiếp phù sinh. Tịch nhiên lặng lẽ, nhẹ nhõm
thong dong từng bước chân bất nhị đi về tự tại tự do giữa cát bụi ta bà
rồi nhẹ nhàng ra đi, tuỳ hỷ gởi lại cho hậu thế nhân sinh vài lời nhắn
nhủ ân cần : Hãy buông xả, xa lìa mọi khen chê thương ghét, phải trái
hơn thua, lìa xa hết những đối đãi nhị nguyên phù phiếm. Không vướng
mắc, không ô nhiễm và cũng đừng chạy đông chạy tây kiếm tìm chi nữa cả
vì cảnh giới Tịnh Độ Niết Bàn chẳng ở đâu xa mà ở chính ngay giữa lòng
tự tâm tự tánh thanh tịnh của mình đây thôi. Nhớ thường miên mật nhẫn
nhục để lòng rỗng rang vô ngại thì mọi ưu phiền khổ lụy đều tiêu tan.
Thầy muốn nhắc nhở chúng ta như thế qua bài kệ thị tịch, trước khi hắt
hơi thở cuối cùng, hòa nhập vào linh khí vũ trụ bao la :
Hơn thua phải trái biết bao là
Xét nét tu hành giữ lấy ta
Tâm để rỗng không thường nhẫn nhục
Muôn phiền não chướng cũng tiêu ma
Đó
là di huấn của thầy, bậc thiền sư dù đã vắng bóng nhưng thần hồn vẫn
còn linh hiện khắp quanh đây, nơi tổ đình Linh Sơn này. Nơi mà mỗi năm
vào tháng 6, khi mùa hạ bắt đầu trổ vàng hoa nắng trên khắp biển ngàn
sông núi là chúng ta cùng gọi nhau về như đàn chim bay về tổ ấm để niệm
tưởng thương yêu bậc thầy tôn kính và cùng trợ duyên, trợ lực thực hiện
những điều tâm huyết của thầy đã di giáo bảo khuyên. Về chùa cũ giống
như về mái nhà xưa chứa chan xiết bao nỗi niềm lai láng bồi hồi :
Mỗi năm một bận quay về
Bên dòng sông nọ ngõ quê quán này
Khắp mười phương tề tựu đây
Thắp hồn tưởng niệm nhớ Thầy Tổ xưa
Tình Linh Sơn trải mái chùa
Mát xanh bóng rợp sớm trưa quanh vườn
Che đời thôn xóm Hiền Lương
Dù bao dâu bể vẫn thường lạc an
Hồng ân Tam Bảo vô vàn
Nghìn thu còn vọng dư vang đất trời
Con đường mây trắng muôn nơi
Mở ra vạn thuở nụ cười Linh Sơn
Mây
trắng nghìn năm còn bàng bạc trên tuyệt đỉnh cao mù Linh Sơn tuyết phủ,
vẫn còn mãi đoá hoa Đức Phật đưa lên và Ca Diếp mỉm cười. Ơi từ đỉnh
Linh Sơn xưa đến tổ đình Linh Sơn nay vẫn con đường mây trắng đó, vẫn
bất tuyệt thiên thu một nụ cười niêm hoa vi tiếu phiêu diêu.
Nụ cười tiếp nối những nụ cười, mở ra những phương trời bát ngát, những cõi miền huyền mộng không đến không đi.
Khi đến chẳng mang theo gì
Cũng như vậy đó ra đi nhẹ nhàng
Sá chi đâu chuyện thế gian
Mà lưu dấu vết son vàng viễn vông ?
Mây trôi nước chảy gió lồng
Từ hư không đến thì không hư về
Thấy rồi một cõi lòng quê
Chưa từng đi đến hay về nơi đâu
Ngay giây phút đủ nhiệm mầu
Đã tan vạn kiếp niềm đau nỗi buồn
Thưa rằng nắng lượn sương buông
Nghìn thu chảy mãi suối nguồn Diệu Tâm
Một lần uống được giọt nước thanh lương từ nguồn suối vi diệu ấy là vĩnh cửu tiêu dao vô sự cùng mạch sống muôn đời.
Cho đến bây giờ, tôi mới thấu hiểu hết nụ cười không chấp, nụ cười vô ngã mà thầy đã âm thầm chuyển hoá mọi người và tôi vội :
Quỳ xuống đó với lòng thành chánh niệm
Lạy ơn Thầy một thuở mở khai tâm
Là muôn thuở thấy ra rồi lối ngõ
Ở ngay đây hoà điệu khúc cung cầm
Linh Sơn ơi ! Trời mây vờn đỉnh núi
Bay về đây che chở suốt bốn mùa
Từ đóa hoa xưa nụ cười Ca Diếp
Đến bây giờ vẫn trổ ngát hương xưa
Tâm Nhiên