Niềm
vui
đơn
sơ
của
nhà
thơ
ở
vào
con
số
12
đường
Bến
Chợ
là
như
vậy
đó.
Tiếng
sẻ
gọi
nhau
trong
nắng
mai
thật
quá
hiếm
giữa
những
âm
thanh
rộn
ràng
khác.
Trước
mặt
nhà
của
nhà
thơ
Quách
Tấn
chúng
ta,
đây
là
ngôi
chợ
Đầm
của
thành
phố
Nha
Trang
với
lối
kiến
trúc
tân
tiến.
Nhưng
trước
kia,
chỗ
này
là
một
đầm
sen.
Một
cái
đầm
sen
ở
ngay
giữa
thành
phố;
chúng
ta
có
thể
hiểu
được
tâm
sự
lạc
loài
của
một
nhà
thơnặng
tình
ấp
ủ
thiên
nhiên
như
Quách
Tấn.
Mặc
dù
vẫn
mang
những
tính
chất
náo
nhiệt
của
một
phố
thịkiểu
mẫu
của
thế
kỷ
này.
Nha
Trang
thỉnh
thoảng
vãn
trầm
mình
trong
hương
sắc
diễm
lệ
của
mùa
thu.
Cho
nên
nhà
thơ
của
chúng
ta
vẫn
là
bóng
dáng
một
lữ
khách
mùa
thu
của
một
thời
đại
quá
khứ
còn
sót
lại
giữa
những
bước
chân
nhộn
nhịp
của
chúng
ta,
của
thanh
niên
trưởng
thành
trong
thế
kỷ
hai
mươi:
Áo
giũ
ngàn
sương
gió
Lên
chùa
thăm
cố
nhân
Non
nghiêng
thềm
bóng
xế
Lịu
địu
bóng
nhàn
vân.
Lịu
địu
(MNS)
Phong
cách
ấy
quả
thực
có
khác
với
chúng
ta
trong
những
thù
tạc
vãng
lai.
Chúng
ta
đến
và
đi
trong
âm
thanh
và
tốc
độ
của
cơ
khí,
ồn
ào
và
vội
vã.
Do
bản
chất
cơ
khí,
nghĩa
là
sự
hiện
hữu
bằng
những
phản
lực
bị
dồn
ép
và
bị
bùng
vỡ,
mà
thời
đại
chúng
ta
mang
nặng
tính
chất
chiến
đấu,
bạo
động:
những
nổi
loạn
trong
triết
lý,
trong
văn
học;
những
phong
trào
quần
chúng,
những
nổi
loạn
của
sinh
viên
thế
giới…
Thế
thì,
thời
đại
ấy
của
nhà
thơ
ấy
là
thời
đại
ẩn
mình
trầm
lặng,
của
một
đám
mây
lơ
lửng
lồng
trong
bóng
núi
nghiêng
nghiêng.
Là
thời
đại
của
một
Vương
Duy
tiễn
bạn
trong
chén
rượu
Vị
Thành,
của
một
Gia
Đảo
lên
núi
tìm
bạn,
hay
một
Lữ
Đường
nơi
chùa
Phổ
Lại,
một
Nguyễn
Du
trong
dãy
Hồng
Linh?
Đạo
dịch
nói:
“
Thiên
nhiên
biến
động
trong
bất
động.
Nếu
lửa
là
biểu
tượng
cho
sự
tiến
hoá
không
ngừng,
thì
núi
là
biểu
tượng
cho
sự
an
định,
tỉnh
chỉ.
Cuộc
lữ
không
chỉ
duy
một
mặt
là
cuộc
hành
trình
vô
tận.
Nhưng
đó
là
những
bước
đi
trên
con
đường
Đạo
–
Chân
thường
vĩnh
cửu.
Núi
có
thể
được
san
bằng
để
cho
phố
thị
mọc
lên,
biển
có
thể
bị
lấp
cạn
để
trở
thành
xa
lộ.
Dù
đến
mức
như
vậy,
mối
tương
quan
bản
thể
giữa
con
người
và
thiên
nhiên
vẫn
tràn
đầy
trong
đồng
nhất
tính
hồn
nhiên.
Miếng
vỏ
sò
lạc
loài
trên
núi
vẫn
mang
trong
bản
chất
tồn
tại
của
nó
một
nổi
hoài
hương
tha
thiết,
nó
mơ
về
những
đợt
sóng
của
trùng
dương:
Vỏ
sò
khô
ấp
ủ
Niềm
băng
tuyết
đêm
sương
Muôn
xa
bờ
bến
cũ
Vang
vọng
sóng
trùng
dương.
Ấp
ủ
(MNS)
Nhà
thơ
của
chúng
ta
trong
một
thoáng
rung
động
kỳ
diệu
nào
đó
đã
đọc
ra
bản
chất
tồn
tại
sâu
xa
của
tạo
vật.
Cũng
chỉ
với
tâm
hồn
ấy
mới
có
thể
đọc
ra
những
ẩn
ngữ
ấy
trong
lớp
vỏ
vô
tri
và
vô
nghĩa
ấy.
Tất
nhiên
nhà
thơ
vẫn
ở
trong
dòng
thác
cuộn
ào
ạc
theo
bước
tiến
lịch
sử
của
con
người,
nhưng
trong
cuộc
hành
trình
vô
tận
ấy
nhà
thơ
có
thể
đạt
được
tận
cùng
về
bản
chất
lữ
thứ
của
mình,
vì
trong
tận
cùng
tâm
sự
vẫn
là
một
nỗi
hoài
hương
bao
la.
Quê
hương
hiện
thực
của
ông
ở
đâu?
Ở
trong
đất
Việt
trời
Nam
này,
trong
bóng
chùa
ẩn
giữa
mây
trắng;
trong
tiếng
chuông
khuya
sớm,
những
tiếng
sáo
chiều.
Đấy
là
những
hình
ảnh,
những
“
thanh”
và
“
sắc”,
mà
thiên
nhiên
vô
hình
thực
hiện
trong
cụ
thể
hữu
hình:
Chùa
ẩn
non
mây
trắng
Bóng
in
hàng
liễu
xanh
Mai
chiều
chuông
đã
tạnh
Vòng
sóng
còn
long
lanh.
Tiếng
ngân
(
Giọt
Trăng)
Đấy
và
những
gì
tương
tự
như
thế
đấy,
là
hình
ảnh
thiên
nhiên
đầy
tình
tự,
là
khoảng
trời
xanh
tinh
khiết
còn
lại
trong
đôi
mắt
long
lanh
của
một
nhà
thơ
trong
cảnh
xế
chiều
của
chính
đời
mình,
và
của
cả
một
thời
đại
thi
ca
Việt
Nam.
Tiếng
chuông
chùa
Hải
Đức
trên
đồi
trại
thuỷ
kia,
sát
bên
thành
phố
ấy,
sớm
và
chiều
vẫn
lạc
loài,
lan
xa
trong
cô
độc,
trong
sự
sống
của
thành
phố
đang
trôi
đi
dưới
những
tiếng
nổ
ròn
rã
và
tốc
độ�
vội
vàng
của
đủ
các
loại
động
cơ.
Những
tiếng
chuông
lạc
loài,
một
hồn
thơ
cô
quạnh,
và
còn
gì
nữa?
Những
giọt
lệ
–
những
giọt
lệ
đoàn
viên
trong
nỗi
hoài
thương
tha
thiết:
Từng
giọt
châu
rơi
mắt
mẹ
hiền
Mừng
con
lưu
lạc
trở
đoàn
viên
Neo
thu
bến
tạnh
thuyền
sương
sóng
In
bóng
chùa
xưa
trăng
nửa
hiên.
Chuông
khuya
(
Đọng
bóng
chiều)
Vậy
thiên
nhiên
có
nói
gì
chăng?
Thì
đấy:
bốn
mùa
đến
rồi
đi,
và
rồi
lại
đến.
Nhưng
ngôn
ngữ
của
loài
người
là
gì,
trên
một
cung
bậc
nào
đó?