dựng vợ gả chồng; hết con lại
đến cháu nội, cháu ngoại, lo sao cho trong ấm ngoài êm; thế rồi cái già
lão suy hao, bệnh tật chực sẵn… ùn ùn kéo tới. Mà đã xong đâu, “chờ
xuống lỗ họa chăng mới có thể phủi tay, rũ áo ra đi”, bao người từng
than thở như vậy!
Thế nên không ít người cố tranh với thời gian, còn được ngày nào thì
còn vui chơi, cố tìm cách bù lại những gì lỡ bỏ mất! Vô thường không
biết đến lúc nào, cho nên phải hấp tấp, “không ăn cũng uổng không chơi
cũng già”, người ta động viên cổ vũ nhau. Lớp như tôi tuổi tác trên dưới
sáu bảy mươi… sống rày chết mai vội vã ăn chơi chút đỉnh cũng phải. Mỗi
sáng, như thường lệ sau khi xong thủ tục múa may vài động tác, đi bộ
dưỡng sinh… năm ba người một nhóm, tập trung ở quán cóc ven sông, lề
đường nhâm nhi ly trà ly cà phê. Chiều chiều lại tìm chỗ tươi mát một
chút, bữa nào khá thì vài ba lon, kẹt một hai chai để gọi là thư giãn
chống lão hóa. Rồi bao nhiêu chuyện trên trời dưới đất thi nhau luận
bàn. Từ chuyện người, ông Obama vô Tòa Bạch ốc chẳng mấy chốc đầu đã
bạc, đến chuyện thủ tướng Nhật nắm quyền mới mấy tháng đã từ chức vì
không thể đáp ứng nguyện vọng dân. Đến chuyện mình, tiêu cực ăn sướng…
mua chức cậy quyền, học giả bằng thật, chuyện lừa gạt ra tòa, vật giá
leo thang, tai nạn đủ thứ thảm khốc… Biết bao cái chết lãng xẹt, chồng
đánh vợ, vợ đổ xăng đốt chồng, con đâm cha giết mẹ, cháu mượn tiền ông
bà chơi ‘game’ không được mượn luôn cái đầu thả sông. Chuyện trái
luân thường đạo lý, đồi phong bại tục… đáng lẽ “đóng cửa dạy nhau” ai dè
tùm lum trên báo, đài… Ngày này qua ngày khác tội ác trở thành bình
thường, trái tim xơ hóa, người người vô cảm! Cạn mấy bình nước mà chuyện
vẫn chưa hồi kết. Đã mười một giờ, thì giờ vui chơi qua mau đành chia
tay hẹn mai tiếp tục. Lời qua tiếng lại, nói bóng nói gió, chuyện trà dư
tửu hậu tưởng nói đâu bỏ đó, ai dè ghim hết vào lòng. Người nghe một
kiểu, hiểu một cách đêm tới tất cả tái hiện… rồi nghĩ vẩn nghĩ vơ. Đời
chi mà lạ, toàn oái oăm cảnh ôm bom tự sát giết người hàng loạt để được
vinh danh? Chiến tranh giết chóc, khổ đau con người chưa phút giây yên
ổn! Làm sao ngủ được, trông sáng gặp nhau xả xú-páp.
Một buổi sáng như mọi buổi sáng, ai nấy đông đủ nhưng không hiểu
sao quán bỗng đóng cửa (cửa đâu mà đóng!) khiến bàng hoàng như thiếu
mất cái gì thân quen. Buổi sáng đẹp trời chẳng lẽ về nhà nằm co! Bàn với
nhau kéo đi chỗ khác, nhưng đi đâu chừ? Có người đề nghị đi xa xa một
chút. Nhất trí lên đường hướng Tây bắc trực chỉ. Ai không xe thì đèo sau
xe người khác. Vòng vèo một lúc qua khỏi Nghĩa trang Liệt sĩ thành phố,
đến ngã tư đèn xanh đèn đỏ, rẽ phải có tấm biển báo chùa Vạn Đức. Không
ai bảo ai, tất cả đổ về hướng đó. Đi được một đỗi, chừng trăm mét thì
ngọn gió đâu thổi mát rượi, ai nấy lấy làm khoan khoái hít thở. Hai bên
đường cây cối xanh tươi, nhà cửa xinh xắn tinh tươm xen mấy ngôi biệt
thự. Tuyệt! Ai nấy hết sức ngạc nhiên. Không tiếng ồn ào động cơ, lâu
lâu mới có chiếc xe máy, vài chiếc xe đạp. Không khí mát mẻ, trong lành.
Cách thành phố hai ba cây số cảnh quan tuyệt vời thế mà lâu nay chẳng
biết tới. Tưởng như cảnh trong phim ảnh mấy nhà hoạt động du lịch vẽ ra
để câu khách. Vượt qua đoạn đường chừng hai cây số đến khúc rẽ, dòng
sông lặng lờ vắt ngang trước mặt. Con sông Cổ Cò lịch sử.
Con đường ngoằn ngoèo bám dòng sông. Yên tịnh. Thanh thoát. Ai biết
Tổ sư xưa khéo chọn nơi đây hữu tình cắm tích trượng dựng thảo am khai
mở đạo! Bốn trụ biểu sừng sững dưới bầu trời trong xanh bát ngát. Bước
qua tam quan chùa, không gian rộng mở bao la. Tiếng chuông tiếng mõ,
tiếng tụng kinh trầm lắng đánh động tâm thức, đưa khách trở về miền tịch
mặc. Ai nấy ngẩn ngơ như lạc vào chốn lạ? Từ cổng vào, bên phải trang
nghiêm tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, một tay cầm tịnh bình, tay kia cành
dương rưới nước cam lồ cứu độ chúng sanh. Bên trái tượng Phật Di-lặc
chiếc bụng trắng phếu phơi giữa nền trời xanh lơ, nụ cười vô ngại đem
niềm hỉ lạc xóa mọi ưu phiền. Rải rác dưới chân Ngài, mấy chú tiểu đồng
tinh khôi đủ tư thế đứng, nằm, ngồi ban phát niềm vui. Sau lưng Ngài
trước miếu thờ Mẫu Ngũ hành, hồ sen mấy đóa sen trắng đầu mùa nổi bật
trên mặt nước. Dọc lối dẫn vào chánh điện nhiều loại kỳ hoa dị thảo xanh
tươi như níu chân khách. Sân trước, vườn sau những chậu mai cắt tỉa,
chăm bón tỉ mỉ. Chỉ nhìn qua, không tinh mắt lắm cũng đủ rõ xu thế, sở
đắc sở trường của vị trụ trì. Có người sững sờ ngắm mấy bức phù điêu đắp
nổi trước chánh điện. Chính giữa đĩnh đạc là tượng Đức Phật tọa thiền
nhập định. Bên phải tượng Phật đản sinh với bảy đóa sen đỡ bước chân.
Bên trái Phật chuyển Pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như, những người
bạn đạo trước khi Ngài thành đạo. Người khác chăm chú ngắm mấy cụm tiểu
cảnh trên ngọn giả sơn quanh nhà khách… Một vị sư trẻ dáng vẻ chững
chạc và phong thái giản dị trong bộ đồ nâu bước ra đón khách. Bộ ấm trà,
mấy chiếc tách màu ngọc đặt trên bộ bàn đá kê ngoài sân, dưới bóng cây
trước nhà khách. Mặc dầu chủ đã ngỏ ý, khách còn tần ngần! Cạn mấy
tuần trà! Không biết bắt đầu từ đâu mọi người nhập cuộc. Rồi bớt e ngại
câu chuyện trở nên cởi mở.
- Thầy tu quả sướng thật! Một người tán thán đồng thời như một câu hỏi!
- Các bác có thể cho nhà chùa đây biết tại sao không?
- Ở chùa yên tĩnh, biệt lập cuộc đời, chẳng đụng chạm đến ai, chẳng hơn thua! Mọi thứ đã có người lo, phải không thưa thầy?
- Các bác nghĩ rằng thầy chùa đóng cửa không đụng chạm việc đời và
chuyện đời không nhập vào cổng chùa? Nếu thế thì tu làm gì, vả lại
nếu thật như vậy thì cũng không thể tu.
- Thầy tu chỉ lo tu, chuyện gì phải làm việc này việc nọ, nếu không muốn!
- Như vậy các bác cho rằng tu có nghĩa là lánh đời, cho rằng đạo Phật
là tiêu cực như người ta vẫn nghĩ? Thực ra không phải thế, tu theo đạo
Phật, trái lại phải nhập vào đời, đưa đạo vào đời. Giác ngộ giải thoát
khổ đau nơi chính cuộc đời này! Nếu cuộc đời không khổ đau… Phật hẳn đã
không từ bỏ cung điện, quyền cao chức trọng, vợ đẹp con ngoan để hơn sáu
năm vào rừng khổ hạnh tìm đường giải thoát, cứu độ chúng sanh. Và nếu
không vì mục tiêu giải thoát giác ngộ chắc chắn đạo Phật không có lý do
tồn tại. Để đạt mục tiêu đó người tu theo đạo Phật phải văn tư tu nắm
vững giáo lý cơ bản từ lời dạy của Đức Phật để rồi lăn xả vào đời tự độ,
độ tha cùng chúng sanh giải thoát sinh tử.
- Ngày nay nhiều người cho rằng lễ hội cầu siêu, cầu an, trai đàn
chẩn tế… diễn ra khá nhiều chốn thiền môn. Nhiều thầy đi tụng kinh, cúng
tế… thời gian đâu tu tập? Và rằng phần đông Phật tử ngày nay đi chùa
chủ yếu lễ bái, cúng dường để cầu xin… Người Phật tử mấy ai có điều kiện
học tập kinh điển, thông hiểu lời Phật dạy?
- Bất cứ việc làm nào đều có ý nghĩa và tác dụng hai mặt. Nếu xuất
phát từ mục tiêu lợi lạc quần sanh thì cũng chính là mục đích tu học
đạo Phật. Cũng như việc xây chùa tạc tượng đúc chuông, tạo cảnh quan
chốn già-lam là cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người tu
học, khách thập phương chiêm bái, quay về đời sống tâm linh. Việc cầu an
cầu siêu là phương tiện bậc tu hành hoằng hóa độ sanh, tạo cơ hội tiếp
cận để truyền đạt, sách tấn mọi người tinh tấn tu học, đưa lời Phật dạy
vào cuộc sống hầu giảm khổ đau, động viên an ủi người sống lẫn kẻ đã
khuất. Trái với mục đích này, vị danh, cầu lợi cá nhân thì hậu quả xấu
tất sẽ theo sau như bánh xe lăn theo vết xe kéo, như bóng theo hình. Mỗi
hành vi từ thân, miệng, ý nhỏ lớn đều tạo nghiệp và ý dẫn đầu, ý tạo
tác. Người học Phật, tu Phật thấm nhuần lời Phật dạy nhất cử nhất động
đều cân nhắc hậu quả. Tuy thế không loại trừ một số trường hợp lệch lạc.
Dù sao cũng chỉ là số ít ngoại lệ và tất nhiên ai làm người ấy trả giá,
nghiệp quả khách quan, công minh không loại trừ bất cứ ai dù là người
tu hay kẻ tục! Thầy ân cần giảng giải.
- Như thế, thưa thầy người tu khác gì người không tu! Một người thắc mắc.
- Khác chứ, mà khác hoàn toàn nữa ấy chứ! Thầy đặt chén trà xuống rồi thong thả tiếp tục.
- Người đời nhìn, nghe, thấy, biết những gì đưa hết vào tâm rồi chấp
chặt. Cái tốt như được khen thì phổng mũi lên giữ bằng được. Trái lại
cái xấu, không vừa ý thì giãy nãy phản đối, bị chê chẳng hạn tức thì
tức giận ghét bỏ! Rồi đáp trả ăn miếng trả miếng, khổ đau dài dài. Đó là
tâm trạng của số đông. Các bác có như thế không? Người tu cũng nhìn,
nghe, thấy hết… biết tất cả mọi thứ, ngoài đời cũng như trong đạo cũng
tốt xấu, tích cực, tiêu cực nhưng tâm không dính mắc. Cũng làm mọi thứ
để sống để tu tập nhưng người tu không vì động cơ cái ta và cái của ta
nên không vướng mắc. Tu tập, hành xử theo tinh thần khế lý khế cơ nghĩa
là phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nên làm mà như không làm, làm mà
như chơi. Tốt xấu, đúng sai, phải trái… thật ra là hai mặt của một thực
tại, bởi cái nhìn phân biệt nhị nguyên huân tập thành thói quen
chi phối suy tư và cảm nhận của mỗi người. Hiểu bản chất thực tại là
không tự tính, là vô ngã vô thường, siêu vượt phân biệt nhị nguyên,
người tu học không chấp trước nên không buồn vui, mừng giận, lo âu!
Dừng một chút, thầy nói tiếp.
- Khi vọng tưởng khởi lên mà tâm không có chánh niệm đi theo nó thì
nó sẽ tạo ra nhiều lớp vọng tưởng nối tiếp và lôi kéo tâm chạy theo. Thế
nên nếu các bác cố gắng tu tập thì hoàn toàn có thể đưa tâm về trạng
thái thanh tịnh. Vì tâm khởi vọng tưởng thì phiền não tiếp theo sau.
Nếu tâm vắng lặng thì phiền não dứt!
Đến đây, thầy kể câu chuyện để minh họa nhận định trên:
“Hai huynh đệ làm Phật sự trở về, ngang qua đoạn đường ngập nước. Có
một cô gái trẻ muốn vượt qua chỗ nước ngập nhưng ngần ngại không biết
cách nào. Một thầy chìa lưng cõng cô gái qua bên kia đường bỏ xuống rồi
lặng lẽ đi. Hai vị tiếp tục đi trong im lặng. Vừa về đến chùa vị kia lên
tiếng trách cứ người bạn đạo đã phạm giới, dám cõng cô gái trên lưng.
Vị này bình tĩnh thưa: “Đệ đã bỏ cô ta xuống từ lâu khi qua bên kia
đường, không ngờ huynh còn cõng cô ấy về đến tận đây!”. Thầy kết luận
“Vạn pháp qui tâm, vạn hữu qui thức” Đức Phật đã dạy 25 thế kỷ trước.
Cuộc đời xưa nay vốn thế… do cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên
cái kia sinh. Tốt xấu là do tâm khởi phân biệt rồi đâm ra yêu ghét,
buồn vui, mừng giận… Người tu chân chính tâm thanh tịnh nên thấy cảnh
thanh tịnh. Trái lại chúng ta phàm phu tâm đầy ắp đúng sai phải trái
nên cố nắm bắt hay từ chối không được đâm ra âu lo buồn phiền… nên chăng
phải tu tập để thanh tịnh tâm, hoàn cảnh sẽ trở nên tốt đẹp tích cực!
Vì như cụ Nguyễn Du đã nói “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ!”.
Tốt xấu thị phi là chuyện hí luận bao đời! Mà để thay đổi hoàn cảnh,
theo thầy, tu tập trở về tâm thanh tịnh là điều nên làm và có thể làm.
Mọi người tâm đắc và hết lời cảm thán! Ai nấy nhẹ nhõm có được giấc ngủ
yên ổn từ đây! Cáo từ trong niềm hoan hỷ và thói quen bao lâu quyết thay
đổi, ít ra mỗi tuần một ngày vân tập về chùa! ■