Ngoài hai nơi đã có cơ sở sẵn là Báo Quốc
(Huế) và Tu viện Già Lam (Sài Gòn), ban Quản trị quyết định mở thêm một
chi nhánh nữa ở Cao nguyên Trung phần, địa điểm được lựa chọn là chùa
Linh Sơn, Đà Lạt, nơi mà Hòa thượng Mãn Giác, tức thi sĩ Huyền Không
đang làm Hội trưởng Hội Phật giáo Tuyên Đức (bây giờ là Lâm Đồng).
Hai mươi học tăng đang theo học Trung học đệ nhất cấp (cấp 2) được chọn
để đưa đi. Trong số ấy có tôi, vừa mới học xong đệ thất (lớp 6 ngày nay)
ở trường Bồ Đề Nha Trang.
Hòa thượng Trí Thủ (bấy giờ là Thượng tọa giám viện) đích thân hướng dẫn hai mươi học tăng lên đường đi Đà Lạt.
Hôm ấy là một ngày đầu thu, Ban Giám đốc và toàn thể học tăng Phật học viện đều ra ga Nha Trang để tiễn đưa chúng tôi lên đường.
Đã gần bốn thập niên trôi qua rồi, vậy mà tôi vẫn còn nhớ như in cái
buổi sáng đầu thu năm ấy. Lúc đó, dù xì dầu, tương chao không đủ ăn,
quần áo không đủ mặc, mà sao huynh đệ, thầy trò lại thắm thiết đạo tình
với nhau như thế? Tôi cứ boăn khoăn tự hỏi, có phải vì lúc ấy cái bả lợi
danh của thế gian chưa dám bén mảng đến chốn Thiền môn như bây giờ
chăng?
Tuổi thơ của chúng tôi đã lớn lên trong không khí trong lành không hề bị
bất cứ một đám mây đen nào làm vẩn đục, nên tất nhiên chúng tôi có đủ
lý do để mơ ước về một ngày mai tươi sáng của đạo pháp và của cả chính
mình.
Riêng tôi, dù lúc ấy chỉ vừa mới học xong đệ thất (lớp 6 bây giờ) nhưng
cũng đã tập tành đọc được các tác giả của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, đặc biệt
là tác phẩm Đoạn Tuyệt của văn hào Nhất Linh, mà trong đó nhân vật
chính là một thanh niên trí thức, ảnh hưởng Tây học, đã phải hy sinh
tình yêu nhỏ bé của mình để phản đối những quy định khắt khe của xã hội
phong kiến đã lỗi thời.
Người thanh niên trí thức ấy đã lên đường đi đến những chân trời xa xôi,
mà Thế Lữ đã cảm xúc ghi lại trong một bài thơ nổi tiếng là Giây phút
chạnh lòng:
Năm năm theo tiếng gọi lên đường
Tóc lộng tơi bời gió bốn phương.
Rồi trên đường phiêu dạt, vào một buổi chiều cuối năm dừng lại trong một gác trọ để:
Rũ áo phong sương trên gác trọ
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.
Cái hình ảnh một thanh niên cô độc trong gác trọ nơi đất khách quê người
“lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang” ấy đã làm quyến rũ nhiều người trẻ
tuổi dạo ấy, trong đó tất nhiên có tôi.
Cũng vào đầu thập niên 50 của thế kỷ 20, thầy Huyền Không (xin được gọi
như vậy để giữ một chút kỷ niệm về tình thầy trò từ khi tôi còn để chỏm)
cũng có làm một bài thơ có tên là Dòng suối nhỏ. Bài thơ diễn tả sự vui
mừng náo nức của tác giả (hay cũng có thể là của toàn thể Phật tử Việt
Nam) vào thời điểm đó, trước thềm đại hội của Phật giáo ba miền Bắc,
Trung và Nam để hợp nhất thành một tổ chức duy nhất là Tổng hội Phật
giáo Việt Nam (tiền thân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất)
diễn ra tại chùa Từ Đàm (Huế) vào năm 1951.
Nhưng tất nhiên có nhiều cách để ta cảm nhận bài thơ này, chứ không đơn
thuần là bài thơ chỉ để đón chào sự kiện lịch sử trọng đại này của Phật
giáo Việt Nam.
Chẳng hạn, ta có thể xem dòng suối nhỏ đó như chính là thân phận của mỗi
người trong chúng ta. Dòng suối ấy, dù đang chảy âm thầm, phải luồn
lách qua không biết bao nhiêu là đầm lầy nước đọng, nhưng dòng suối vẫn
ước mơ rằng một ngày nào đó sẽ gặp được đại dương mênh mông.
Chúng ta cũng vậy, một hôm nào đó trong đời chợt nghe gió mùa se thổi,
thấy đời sống chẳng có ý nghĩa gì cả, ngoài “bốn bức tường ủ rũ”, ta
bỗng khát khao muốn đi đến những chân trời xa xôi, như dòng suối nhỏ của
thầy Huyền Không cũng đã từng khát khao như vậy:
Chất chứa bao niềm hận
Chật hẹp riêng cuộc đời
Đêm qua trời trở gió
Tôi mơ chốn xa vời.
(Dòng suối nhỏ)
Trong thi phẩm Kẻ lữ hành cô độc được tái bản vào năm 2004 tại Mỹ, rồi
trong tập kỷ yếu mừng khánh thọ vào năm 2005, thầy đều có trích đăng lại
bài thi kệ này:
Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu.
Mà thầy đã dịch là:
Bình bát cơm ngàn nhà
Một thân muôn dặm qua
Chỉ vì niềm sống chết
Giáo hóa độ Ta Bà.
Hồi còn ở Đà Lạt cũng như Sài Gòn, thầy Huyền Không thường kể cho tôi
nghe rằng, khi thầy còn là một học tăng ở chùa Báo Quốc, thầy thường
trốn học ra ngồi dưới gốc cây nhãn của chùa để đọc các nhà thơ mới như
Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, v.v... và nhất là các tác
phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, đặc biệt là tiểu thuyết của Nhất Linh đã
ảnh hưởng mạnh mẽ đến độ mà vào cuối đời, ngồi nhớ lại một làng quê đã
xa xôi của tuổi thơ, thầy vẫn còn nhắc “... đêm nào nằm ngủ tôi cũng
thường nghe tiếng sóng vỗ ngoài biển, tiếng sóng nghe ầm ầm gặp khi trời
động. Nghe tiếng sóng vỗ, tôi liên tưởng đến anh Vọi trong truyện Trống
Mái của Nhất Linh”.
Như vậy là cái “chốn xa vời ...” mà thi nhân ước mơ đó ngoài âm hưởng
của “cô thân vạn lý du”, tức là hình bóng của những kẻ xuất trần thượng
sĩ tự nguyện rong ruổi một mình trên những nẻo đường của trần gian để
lay động con người của trần gian đang ngủ mê trong đêm dài sanh tử ra,
thì còn có cái lãng mạn của một thanh niên trí thức thời đó (qua Dũng
trong Đoạn Tuyệt của Nhất Linh). Thứ lãng mạn mà các nhà văn nhà thơ
thời bấy giờ đều thể hiện trong các sáng tác của mình.
Sở dĩ tôi muốn nhấn mạnh đến vấn đề này là vì, chúng ta còn nhớ rằng,
văn thơ của Phật giáo thời ấy hầu như bị đóng khung hoàn toàn trong “nhà
chùa”, nghĩa là hầu hết văn hay thơ đăng trên báo chí của Phật giáo
trong những thập niên đầu thế kỷ 20 và cả giữa thế kỷ nữa cũng chỉ dành
cho các Phật tử đi chùa lạy Phật đọc mà thôi. Và chắc chắn thầy Huyền
Không là một trong những người tiên phong biết kết hợp giữa các giá trị
tâm linh siêu việt của Phật giáo với nghệ thuật đương đại để có thể đưa
văn thơ của Phật giáo ra khỏi cổng tam quan của chùa vậy.
Chính nhờ thế mà hồi ấy và có lẽ bây giờ cũng vậy, vẻ đẹp của những ngôi
chùa không chỉ dành riêng cho những Phật tử đi chùa lễ Phật nữa, mà
ngôi chùa đã nghiễm nhiên trở thành biểu tượng cho cái đẹp đầy tâm linh
của dân tộc. Nếu không có những người tiên phong như thầy Huyền Không
thì có lẽ ngày nay nếu mỗi khi chúng ta có dịp nói đến cái đẹp của những
ngôi chùa thì chúng ta phải mượn tên các thi nhân bên ngoài như Anh
Thơ, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh hay Nguyễn Bính, v.v... Nhưng chúng ta nên
biết rằng, họ là những người ở bên ngoài ngôi chùa, nên họ chỉ thấy được
cái đẹp từ bên ngoài chứ tuyệt nhiên họ chưa đi vào được cái đẹp tinh
thần cũng như sứ mạng mà ngôi chùa đã đóng góp như thế nào đối với đời
sống tâm linh của dân tộc.
Đó là chưa muốn nói đôi khi họ còn hiểu lệch lạc tinh thần của ngôi chùa. Ví dụ bốn câu sau đây của Thanh Tịnh:
Đạo sĩ chờ tôi chán hải hồ
Tôi chờ đạo sĩ lãng hư vô
Tôi mơ trăng lạnh Hàn Sơn tự
Ấp ủ men tình đội áo khô.
Trên phương diện thi ca, theo tôi thì bốn câu trên quá hay không thể chê
vào đâu được nữa. Nhưng trên phương diện tinh thần thì Thanh Tịnh đã
hiểu lầm, vì ngôi chùa không phải là nơi để ông trở về chữa vết thương
của tình yêu, rồi đợi một ngày nào đó vết thương đã lành thì lại bỏ chùa
để ra đi theo một chuyện tình khác:
Tôi mơ trăng lạnh Hàn Sơn tự
Ấp ủ men tình đội áo khô.
Bởi vậy phải đợi đến khi bài thơ Nhớ chùa của thầy Huyền Không ra đời
(1956) thì mới xác định đúng vị trí của ngôi chùa đối với đời sống tinh
thần của dân tộc:
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh.
hay triệt để hơn:
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Hồi nhỏ tôi đã xuất gia tại một ngôi chùa ở miền quê nghèo khổ của miền
Trung. Chùa nằm dưới một ngọn núi hùng vĩ cách xa xóm làng. Muốn vào
chùa phải lội qua một con suối, chung quanh suối có nhiều tre mọc san
sát bên nhau.
Lớn lên rời bỏ ngôi chùa quê vào sống nơi những ngôi chùa ở thành phố, nên mỗi lần đọc bài thơ Nhớ Chùa đến hai câu:
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Yên lặng chùa tôi ngập nắng vàng.
thì tôi lại nhớ thương da diết về ngôi chùa của tuổi thơ dạo ấy.
Và tôi cứ thắc mắc tự hỏi là có phải ngôi chùa mà thầy nhớ trong bài thơ
Nhớ Chùa đó là chùa Thiên Minh ở Thành phố Huế, nơi thầy đã xuất gia
học đạo hay là ngôi chùa Linh Sơn ở Thành phố Đà Lạt nơi thầy đã từng
sống và làm việc trong nhiều năm? Nếu là những ngôi chùa ở hai thành phố
ấy thì làm gì có cảnh “mỗi tối dân quê đón gió lành” và làm gì có hàng
tre để thầy “gợi hồn sông núi”. Nỗi thắc mắc ấy đến mấy thập niên sau
mới được giải đáp nhờ tôi đọc được một tùy bút ngắn là Phương Lan, quê
tôi của thầy:
“Quê hương Quảng Trị của tôi làng nào cũng giống nhau, cũng mái tranh,
cũng khói lam chiều. Mùi rơm, mùi rạ, mùi trâu bò, mùi gia súc mang lại
cho ta một thứ tình quê mặn nồng, không ai có thể dễ dàng quên trong
cuộc đời nếu thời ấu thơ của chúng ta đã từng sống ở làng quê”.
Khi chiến tranh bất ngờ ập đến, không thể về quê được, cũng như nhiều người khác thầy cũng nhớ da diết: “...
Tình quê của tôi nó thâm nhập như vậy, nên chi trong thời chiến tranh
về thăm làng không được, vào năm 1956 tôi đã sáng tác bài thơ Nhớ Chùa. Ở
nhà quê, làng nào cũng có chùa, chùa nào cũng có hương hỏa phụng thờ,
nơi gửi gắm bao đời của tổ tiên”.
Như vậy là thầy đã không lấy cảm hứng từ chùa Thiên Minh ở Huế hay chùa
Linh Sơn ở Đà Lạt, tức là những ngôi chùa ở nơi phồn hoa đô hội, mà thầy
đã lấy cảm hứng từ những ngôi chùa ở tận những thôn làng nghèo khổ để
sáng tác ra bài thơ Nhớ Chùa.
Những ngôi chùa nghèo khổ này vẫn đứng đó trong âm thầm lặng lẽ để chia
sẻ, để an ủi những mảnh đời bất hạnh, những mảnh đời lầm than cơ cực của
những người nông dân chân lấm tay bùn, từ đời này qua đời khác, từ thế
hệ này qua thế hệ khác vậy.
Và theo tôi, chẳng phải một bài thơ hoặc một tác phẩm được cho là hay,
có nghĩa là bài thơ ấy, tác phẩm ấy đọc vào ai cũng phải thấy thấp
thoáng có bóng dáng hay tâm tư của chính mình trong đó hay sao?
Bởi vậy, dù phiêu dạt ở chân trời góc bể nào đi nữa, thì thầy vẫn nhớ về
những ngôi chùa tận những miệt miền quê nghèo khổ ấy, nói theo cách nói
của thầy thì “... vì nỗi nhớ thì quá nao nao, cho nên tôi đã phải liều
mà trồng hoa trong mùa bão tố:
Biết đến bao giờ trở lại quê
Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
Tang thương dù có bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê”.
Xin được trở lại với chuyến đi Đà Lạt của ngày đầu thu dạo ấy.
Khi xe lửa bắt đầu móc từng móc sắt chậm chạp leo lên đèo Sông Pha để
tiến vào Thị trấn Đơn Dương thì không khí khác hẳn, nghĩa là mát mẻ vô
cùng. Có lẽ vì 20 người trong chuyến đi ấy hầu hết đều được sinh ra và
lớn lên ở dưới đồng bằng nên tất cả đều có cảm giác là đã vừa vứt lại
sau lưng cái nóng bức của mười mấy năm đầu tiên trên mặt đất này. Hai
bên đường ray xe lửa là rừng thông xanh, là suối chảy róc rách, là hoa
dại đủ màu sắc, nhưng đặc biệt nhất là hoa dã quỳ đang nở rộ làm vàng
rực cả núi rừng.
Em đi lên vói bắt mấy hương màu
Miền đất thượng có mấy bờ hoa mọc.
(Bùi Giáng)
Có lẽ phải nhờ hai câu thơ ấy mới có thể diễn tả hết sự náo nức của tôi
trong chuyến đi này. Náo nức vì không phải được đi Đà Lạt mà còn náo nức
cho cả những ngày tươi đẹp còn dài trước mắt chúng tôi, tươi đẹp như
thành phố ngàn hoa mà chúng tôi đang sắp sửa bước vào đây.
Khi tàu lửa vào ga Đà Lạt thì trời đã xế chiều. Thầy Huyền Không đã đứng
chờ sẵn ở đó để nghênh đón Thượng tọa Giám viện và học tăng chúng tôi.
Nhìn thầy và nhìn những tia nắng mong manh của buổi chiều tà đang xuống
chậm giữa đồi núi chập chùng, tôi liên tưởng đến bài thờ Một ngày qua
của thầy. Bài thơ mà vào khoảng cuối thập niên 50 và những năm đầu thập
niên 60 (thế kỷ 20) một nhạc sỹ nào đó đã phổ nhạc, và được một ca sỹ
Phật tử nổi tiếng là Duy Khánh hát, rồi trong các ngày lễ Phật lại được
các em thiếu nhi gia đình Phật tử áo lam hát vang lên trong các sân chùa
vào mỗi chiều Chủ nhật của miền Nam thời đó. Chúng ta nên biết rằng,
chỉ sau năm 1963 thì văn nghệ Phật giáo mới bắt đầu và sau đó nở rộ vào
những năm từ 1967 đến 1974. Nhắc lại như vậy, để thấy rằng thầy Huyền
Không là một trong những người đã có công đưa văn nghệ Phật giáo bắt đầu
ảnh hưởng đến xã hội thời bấy giờ, chứ không chỉ giới hạn trong nhà
chùa như trước đó nữa.
Bài thơ đó tôi nhớ loáng thoáng như thế này:
Ngày tàn theo gót hoàng hôn
Bóng chiều đổ xuống tâm hồn ai đây
Thông xanh rải rác phấn vàng
Nghe trong gió thoảng cung đàn biệt ly.
hay một đoạn khác:
Chiều xuống giữa rừng dâu
Chân bước đi về đâu?
Tìm cái gì đã mất
Không thấy lại hôm sau.
...
Lá vàng lác đác gió bay
Còn đâu đây nữa một ngày đã qua.
Thời gian tàn phá và hủy diệt mọi sự, nhưng đau đớn thay là tất cả chúng
ta đều gần như trơ lì và chẳng hề biết rằng mình đang trên con đường đi
đến hủy diệt.
Chỉ có Thiền sư và thi nhân là những kẻ biết rất rõ rằng mình cũng sẽ bị hủy diệt trong một ngày nào đó không xa.
Bài thơ Một ngày qua, được Thầy Huyền Không sáng tác lúc còn trẻ, chỉ
khoảng trên 30 tuổi, cái tuổi còn chan chứa mộng đời, cho nên nếu có
buồn thì cũng chỉ buồn man mác mà thôi.
Nhưng đến tuổi xế chiều thì khác, không thể nói là buồn nữa, mà dù muốn
hay không cũng phải chấp nhận nó như một sự thật hiển nhiên vì theo Thầy
: “Không ai có thể đưa tay níu lại thời gian để giữ cho mình không thay
đổi. Thôi thì hãy hài hòa chấp nhận và thảnh thơi sống với cái thời
gian thực sự; đó là cách tìm sự an tâm trước mọi đổi thay”.
Và vì vậy cho nên lúc 55 tuổi Thầy có viết:
Cây tùng năm lăm tuổi
Trên đầu lá còn xanh
Thiền sư già cằn cỗi
Môi nở nụ cười lành.
(Cây tùng)
Có lúc nhìn thời gian trôi qua nhanh không chỉ “môi nở nụ cười lành” thôi, mà còn “cười vang suốt đêm trường” nữa:
Thiền sư đi trên đường
Áo rộng đầy tình thương
Thời gian không níu lại
Cười vang suốt đêm trường.
Riêng tôi, thì có lẽ chưa đủ nội lực như Thầy để “cười vang suốt đêm
trường” dù có thể đó chỉ là cái cười chua xót. Nhưng ngược lại, mỗi lần
đọc bốn câu mà theo tôi rất là lạ lùng sau đây trong bài Kẻ lữ hành cô
độc của Thầy:
Trong đêm vắng kêu vang
Tiếng vọng khắp xóm làng
Ai biết kêu gì nhỉ
Trên trời mây lang thang.
Nhất là vào những đêm khuya khoắt chợt thức giấc, thì những mảnh đời đã
ly tán lại trở về chập chờn trong ký ức mịt mù của tôi; đó là những ngày
ấu thơ nơi một làng quê nghèo khổ nhưng lại có rất nhiều mây trắng và
còn có cả ngôi chùa xưa tịch mịch lúc nào cũng tràn ngập nắng vàng. Rồi
những năm tháng được sống bên cạnh Thầy tại chùa Linh Sơn ở Đà Lạt. Cái
thành phố sương mù thơ mộng này dường như đã nuôi dưỡng hồn thơ của Thầy
từ những ngày còn trai trẻ. Có lẽ con người chỉ thực sự sống với chính
mình, khi con người biết ngồi một mình để hồi tưởng lại những ngày còn
ấu thơ của chính mình. Chỉ những lúc ấy, ta mới chợt nhận ra rằng, dù
hiện tại ta có là gì đi chăng nữa, thì cuối cùng ta cũng sẽ chỉ là một
kẻ bơ vơ lạc lõng bước đi một mình trên mặt đất hoang vu này mà thôi,
hay một Kẻ lữ hành cô độc, nói theo ngôn ngữ thi ca của Thầy. Vì sao? Vì
chẳng phải Saint Exupéry đã từng nói cho chúng ta biết rằng: “...bóng
tùng quân nghìn tầm xiêu đổ, thì cái con người trơ trụi sẽ chỉ còn nghe
rõ trong hoang liêu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất”* đó sao?
Còn một điều nữa, không thể không nói đến trong thi ca của thầy Huyền
Không. Đó là tấm lòng của Thầy, một kẻ tha hương nhưng lúc nào cũng
ngóng trông về cố quốc:
Chiều nay mưa lòng ai
Tâm hồn chìm xa vắng
Ra đi đất nước người
Nhìn nhau đầy thầm lặng.
(Tiễn đưa)
Ở nơi xứ người, dù mỗi năm mùa xuân vẫn đến, nhưng làm sao vui cười được nhỉ ?
Thương Xuân tuyết trắng trên đầu núi
Nhớ nước làm sao nở nụ cười.
Có lẽ hai câu thơ trên đã đủ để nói lên hết tất cả tấm lòng của Thầy đối với quê hương đất nước rồi chăng?
Trong hơn 20 năm qua, mỗi lần viết thư cho tôi, lúc nào Thầy cũng nói
lên cái mong ước của Thầy là, một ngày nào đó sẽ về thăm lại quê nhà,
thăm lại những ngôi chùa có con đường đỏ chạy lang thang. Và mỗi khi hồi
âm cho Thầy, tôi cũng đều chép hai câu thơ của Thầy, hai câu thơ mà tôi
đã thuộc nằm lòng từ khi còn ở với Thầy ở chùa Linh Sơn (Đà Lạt):
Tiếng chim hót ngoài xa
Vui như ngày trở lại.
Dù bây giờ có lẽ chim đã bắt đầu hót ngoài xa, nhưng tôi nghĩ trong ngậm
ngùi, mai này trong những người trở về thăm lại quê nhà đó sẽ không bao
giờ có Thầy trong đó nữa ...
Nha Trang, những ngày cuối Xuân Đinh Hợi (2007)