Đã đi thì đã đi rồi.
Bước chân thoạt chớm khởi hành ấy đã vấp phải âm vang địa chấn của Long Thọ:
gataṃ na gamyate tāvad
agataṃ naiva gamyate/ MK. ii. 1a
Có gì trong những bước đi, và còn gì
trong những bước đi? Chỉ một khoảng ngắn cần vượt qua, khoảng ngắn được
đo bằng chính tự ngã của ta. Anh nhảy qua hố thẳm. Hố thẳm như là, vì
chính là, ý hướng tính của ta phóng xuất ra đó; bóng tối của thời gian
tích tụ ảo ảnh ngông cuồng của tuổi trẻ. Anh nhảy qua hố thẳm, nhảy qua
cái bóng của chính mình. Những bước nhảy vẽ thành chuỗi thất bại liên
tục trong đời, trong dòng tương tục vô hạn của thời gian, lan tràn qua
biên độ vô biên của thế giới:
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiều
Cái đã đi, một cái gì đó vô nhân, vô
ngã, đã đi qua trong tôi, trong người, trong đâu đó, hữu biên và vô
biên, hữu hạn và vô hạn; cái đã đi ấy chưa hề được thực hiện, chưa hề
được đi. Khoảnh khắc đột nhiên ngừng lại. Quá khứ biến mất. Cái đã đi,
cái tôi nào đó đã đi, con đường nào đó đã được đi, ngày tháng nào đó đã
trải đi; thời gian và thế gian ngưng tụ, ngưng đọng. Không quá khứ;
phóng ảnh vị lai chợt dừng lại, như bị đẩy lùi lại sau, đẩy lui vào quá
khứ, rồi biến mất. Câu chân ngôn xuất hiện:
Oṃ ga ga ṇa: Án nga nga nẵng.
oṃ sarva-saṃskāra-pariśuddha dharmate gagana samudgate svabhāva:
Hết thảy hiện tượng thảy đều thanh tịnh, tự tánh xuất hiện trong hư không pháp tánh!
Ồ, hư không! Hư không hủy diệt. Tìm dấu chim bay trong hư không:
Có còn gì nữa mà thương.
…
Sắt son tình cũ …
Người anh yêu, một phương trời mất dấu;
như sợi lông thiên nga phất phơ trong không gian rực lửa. Lửa soi sáng
trái tim, trong đó hiện hình Thiên nữ. Thiên nữ chuyển thân thành Thánh
mẫu Bồ tát Cứu Độ Đa-la:
Án Đa La tịch mịch hồng.
Oṃ tāre tuttāre ture svāhā
Những giọt nước mắt từ khóe mắt Đại Bi
của Bồ tát Quán Thế Âm rơi xuống; giọt nước mắt hiện thân thành Thánh
nữ Đa-la. Ngài hiện thân sức mạnh để dẫn người khốn khổ vượt qua khỏi
những tai họa hiểm nghèo. Tai họa bởi nước cuốn, bởi thú dữ, cũng như
bởi sự phản bội của người tình. Bởi vì Tāra có nghĩa là Cứu độ.
Từng âm thanh mật ngôn như những ánh
sao lấp lánh – bởi Tara cũng có nghĩa là Ngôi Sao, mờ nhạt nhưng có đủ
uy lực để đưa người đến chỗ an toàn. Tara, hay Tāra, Mẹ của Đại Bi và
Đại Trí, luôn nhìn xuống những đứa con ngu xuẩn, và yếu đuối, đang lang
suốt cả đêm dài trên mặt đất hoang vu.
Bài thơ có năm đoạn, hay một thiên thơ
có năm bài, đi theo nhịp bước chân của Bát-nhã: gate – gate – paragate
– parasaṅgate – svāhā! Hoặc vô tình, hoặc cố ý, để cho cảm xúc từ những
hoài vọng tiếc nuối quá khứ, đã đi và đã mất, diễn theo từng đợt sóng
xô. Người lữ hành bước đi, từng con sóng của đại dương cuốn theo, xóa
sạch từng dấu chân đi. Lưu lại trong khách ảo ảnh tiền thân, phảng phất
mùi hương, và sắc màu quá khứ không phai nhạt.
yathā māyā yathā svapno
gandharvanagaraṃ yathā/
tathotpādas tathā sthānaṃ
tathā bhaṅga udāhṛtam // MK. vii. 35
Như huyễn tượng, như chiêm bao, như thành phố giữa hư không, cũng vậy, những gì xuất hiện, tồn tại, rồi hủy hoại.
Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời.