Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi
mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hoà trung thực. Khi
còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười
lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở
trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc
người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi
mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng
được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy.
Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn
ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì: Yến
bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để
cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ?
Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng.
Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một
ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa
đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm
chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ
cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy M.H. Rồi bà cười ha hả: Đi tu mà chẳng trót đời, làm thân con ếch cho người lột da. Mẹ
tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối
đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn,
làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu
nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh
giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến
đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp
ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì
sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm...
Cô ruột tôi giận lắm, bảo: Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng.
Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói Đừng. Ông không
trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng
khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha
mới đến Tây Phương?
Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa. Thiệt
là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng
lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni. Tôi dân dấn
nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt
đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho
thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...
Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu
Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi
bảo: Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu? Tôi chỉ lắc đầu...
Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn,
thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong
lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi
chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi tôi bắt đầu chướng
tính. Sư huynh hạch tôi: Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà
phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương
giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự
tác. Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất
nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng
với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc
sắp tụng kinh, tôi biện bạch: Bạch thầy, ngày xưa cha con thường
bảo: tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu
đời đục mà tránh? Thầy hỏi: Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không
trong. Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì.
Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời
vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại
kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng
trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ
ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết
sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần
tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm
nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng.
Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: Này, đừng
nghịch. Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. Anh cứ
tưới đi, em cũng là Lan. Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô
bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy. Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: Mấy con Thị Màu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đoạ địa ngục hử? Tôi cự: Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ.

Từ
đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết
về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người.
Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước
gió. Lan phụng phịu: Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có. Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi.
Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: Không can gì. Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa? Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu. Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó. Tôi động lòng, hỏi: Bạch
thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ
còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung
Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là
hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong. Thầy cười: Đúng,
con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì
cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi
cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng,
không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên
chín tầng mây. Tôi vái thầy mà thưa: Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa.
Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. Anh không thích phong lan nữa sao?. Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan.
Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim
hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua,
họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh toả thơm ngây ngất.
Lan bảo: Thích ghê, em chưa thấy bao giờ. Ừ, loài cây ấy có lẽ
giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua
bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng
khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...
Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi
gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm
với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường. Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng. Tôi hãi hồn, vội nói: Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây. Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa.
Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau
chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô
bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như
thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt
Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây
mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ
mặt...
Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán Con
Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào
đến gần được, nó tránh như tránh tà. Không phải đâu, nó giữ giá để chờ
lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó. Giữ giá
cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một
bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức. Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: Khó
tin. Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra - bạn tôi nói, vẻ ông cụ
non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho
thằng Quắn.
Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu
được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về
Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: Nhà chùa có việc gì mà nhắc cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi.
Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình
thịch vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần
đầu: Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu....
Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ
thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan
uống, Lan lắc đầu, Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn: Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi. Quay sang Lan, tôi nạt: Đi về! Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa.
Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm
hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi...
Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc: Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không? Tôi cau mặt: Em
khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn? Quắn bảo em uống vài chén cho ấm
rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến. Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi.
Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn. Nước mắt Lan chảy thấm
qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống
vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi. Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?
Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run.
Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời.
Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày
xưa... Em có thích nghe chuyện cổ tích không? Thích. Tôi kể cho
Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng
hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi
ngờ: Sao có người làm được như thế? Tôi gật đầu: Ngày ấy, nhà vua
cũng đã hỏi như vầy. Vị thiền sư trả lời: Bệ hạ hứa nếu y làm được thì
sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn
chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người
này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua. Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng. Em
hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem
anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai
bỏ cuộc? Tôi bảo: Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con.
Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh
hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không?
Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. Thôi, về đi em. Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp loá những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...
Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: Cô
đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu. Không có lửa làm sao có khói. Ăn ốc,
đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau
tước từ dưới tước lên. Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không
nín được cười. Cô bực tức: Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?
Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi
về.
Con ma nữ đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: Bác
biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng.
Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi
con. Tôi cuống quýt: Bác bảo con làm sao được? Con cứ giả vờ ừ
đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc
rồi tự nhiên nó hiểu ra. Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ: Nói
như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có
phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai
mang tiếng. Tôi thở dài: Cháu đi tu không phải là mong lọng
vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một
nghìn lần kinh Thuỷ Sám. Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi...
Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: Sao con bỏ học? Tôi nói: Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng.
Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh,
vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh,
thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: Bạch thầy. Thầy tôi bảo: Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn. Tôi nói: Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An. Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi: Tâm không an, có cầu cũng vô ích.
Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra,
mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến
bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào
xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước
gió. Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có
làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng
hơn? Thầy nhìn vào mắt tôi: Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình. Tôi lắc đầu: Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi.
Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt
nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình
thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ
Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.
Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: Chú Ninh! Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. Bác lên chùa cầu cho em đi bình an... Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.
Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan: Bốn
trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua
cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm
sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng
xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh
bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích
hoàng lan...
Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi
Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không
phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi
xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh
cầu siêu thoát, một lần thôi...
Bất giác, tôi oà khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục luỵ cuối cùng. Cứ khóc đi con - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ. Tôi nức nở: Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây Hoàng Lan không?
Thầy bảo: Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung? Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.
Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm
khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế
gian.
Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.
TTM
(*) Trần Thùy Mai sinh trưởng ở Hội An, Quảng Nam, lớn lên ở Huế,
là cựu nữ sinh Đồng Khánh, hiện là biên tập viên NXB Thuận Hóa, Huế. Đã
xuất bản: Bài thơ về biển khơi, Thị trấn hoa quỳ vàng, Cỏ hát, Trò chơi
cấm, Gió thiên đường, Quỷ trong trăng (giải B Hội Nhà văn VN năm 2002),
Biển đời người, Thập tự hoa (giải thưởng văn học - nghệ thuật 2003 của
Ủy ban toàn quốc các hội văn học - nghệ thuật VN), Đêm tái sinh, Mưa đời
sau…