Chương Một
Schumacher và Tuyên Ngôn Kinh Tế Phật giáo
Có nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên khi nghe nói tới Kinh Tế Phật giáo.
Kinh tế tự túc của nhà chùa nhiều lắm chỉ là mầy mẫu ruộng cho tá điền
thuê để tìm thêm chút thu nhập eo hẹp. Cho tới nay hầu như phần lớn các
chùa sống nhờ vào sự hỷ cúng.
E.F Schumacher
Trên bình diện quốc gia, các nước theo Phật giáo như ba nước Đông Dương, Miến Điện, Tích Lan đều là những nước nghèo.
Kinh Tế Thái Lan mới phát triển gần đây và xã hội tiêu thụ đã làm văn
hóa đạo đức của nước này tan rã một cách thảm hại, hiện tượng mà cư sĩ
lãnh đạo phong trào nhập thế ở Thái, Sulak Sivaraksa, gọi là từ Hoa
Sen đến Bàn Tay của Quỷ. Tuy trên giấy tờ, GDP của Thái tăng trưởng
nhanh chóng nhưng nạn nghèo khó càng trầm trọng, hàng trăm ngàn cô gái
bán thân nuôi miệng, và những thuyền nhân Việt Nam đã không quên kinh
nghiệm hãi hùng khi nhóm hải tặc đối với người như lang sói, mới thấy
sự đồi trụy của của văn hoá Thái đến như thế nào. Bây giờ lại thêm cuộc
khủng hoảng với các tín đồ Hồi giáo ở miền Nam Thái. Các nhà sư trong
truyền thống Thái vốn là nguồn cỗi đạo hiện ‘cạnh tranh’ ráo riết để có
thêm tín đồ trong các lễ lạc mê tín và ‘tăng đức’ của các vị này xuất
hiện qua các xe lộng lẫy mắc tiền nhất.
Nhật là nước giàu sang từ sau thế chiến, nhờ đầu tư của Mỹ, và có lẽ
nhờ tinh thần quốc gia un đúc từ Thần Đạo, hơn là nhờ Phật giáo.
Đại Hàn phát triển được có lẽ nhờ viện trợ Mỹ và trãi qua vài thập
niên dưới sự cai trị sắt máu mấy ông tướng độc tài, và có lẽ nhờ tinh
thần tranh đua ráo riết với Nhật, đã từng cai trị Đại Hàn với bàn tay
sắt máu.
Tại sao lại đặt vấn đề liên hệ giữa đạo Phật và phát triển?
Nhiều người chỉ nhún vai ngờ vực, mỉa mai là nhà chùa định mở xưởng
sản xuất xì dầu hay tương chao để cạnh tranh với các tổ hợp sản xuất
thức ăn chay của Đài Loan. Ngay cả trí thức Phật tử cũng tỏ ra lạnh
nhạt với vai trò của đạo Phật trong viễn tượng phát triển kinh tế.
Trong một bài báo đăng trên Giao Điểm, Cao Huy Thuần nói là vai trò
phát triển kinh tế ở các nước Á Châu nếu có, là vai trò của Khổng giáo
hơn là Phật giáo. Tự hào về tinh thần quốc gia và truyền thống văn hóa
có thể là động lực đánh thức mấy con rồng Á Châu, và Lý Quang Diệu từng
dùng ‘giá trị Á Châu’ để biện minh cho những biện pháp cai trị bằng bàn
tay sắt bọc nhung ở Singapore. Theo Cao Huy Thuần, Phật giáo chỉ dành
cho những người nào biết nghĩ đến mùa màng ngày mai, góp phần làm tươi
tốt xã hội hơn là phát triển vật chất. Cao Huy Thuần khuyến cáo nhà
chùa không nên dính líu đến chính trị. Nhà chùa chỉ nên tu. Tu được là
có tất cả.
Những lời nói hoa mỹ lịch sự này phàn ảnh lập trường muốn tách rời
vai trò của Phật giáo trong tiến trình chuyển hóa xã hội và là một điều
đáng ngạc nhiên, nhất là sau sự dấn thân của Phật giáo Việt Nam vào
các năm 1963-1966. Tôi đã đưa ra một định nghĩa chi tiết về Phật giáo
nhập thế trong tác phẩm Vietnamese Engaged Buddhism cho thấy lập trường
thế trị của Phật giáo, về xã hội, kinh tế hay chính trị.
Tuyên Ngôn Kinh Tế Phật giáo
Một nhà kinh tế Anh gốc Đức, Erns Friedric, Schumacher, đã nhìn thấy tiềm năng của đạo Phật trong phát triển kinh tế. Tác phẩm Small is Beautiful: A Study of Economics as if People Mattered do Blond & Bridge xuất bản tại London vào năm 1977. Theo ý tôi, đây là Tuyên Ngôn Kinh Tế Phật giáo của người Phật tử, cũng quan trọng như Tuyên Ngôn Của Người Cộng Sản của Marx vào thế kỷ trước.
Schumacher nhấn mạnh ông không phải là Phật tử và nói rằng tư tưởng của Đức Phật đã có sẵn, nên ông chỉ muốn rút ra một vài nguyên tắc để biện chính cho những nhận xét của ông về trào lưu kinh tế hiện đại.
Schumacher sinh ở Đức, qua Anh vào năm 1930 theo chương trình Rhodes
Scholar dành cho sinh viên xuất sắc, theo học ngành kinh tế tại New
College Oxford. Sau đó ông dạy kinh tế tại đại học Columbia, New York,
khi mới có 22 tuổi. Ông cũng đi vào con đường thương mại thực hành, khai
thác nông trại và làm phóng viên. Trong thế chiến thứ hai, ông dạy tại
Oxford và sau khi chiến tranh kết thúc, ông làm đại diện cố vấn kinh
tế của chánh phủ Anh tại…Đức từ năm 1946 đến năm 1950. Ông được nhiều
chánh phủ thuộc các nước nghèo mời làm cố vấn về phát triển nông thôn.
Ông là chủ tịch Nhóm Phát Triển Kỹ Nghệ Trung Bình mà ông cho là thích
hợp với các nước đang mở mang, hơn là chánh sách phát triển kỹ nghệ
nặng. Vì thế tựa sách chính là Small is Beautiful và tựa phụ As If People Mattered, cho thấy mối quan tâm của ông đối với trào lưu kinh tế tân cổ điển, phát triển chỉ để phát triển. As if People Mattered có thể tạm dịch là kinh tế phát triển với bộ mặt nhân bản.
Phát Triển Kinh Tế Và Hoà Bình
Nhiều người thường xem ngòi nổ chiến tranh do sự chênh lệch mức sống
giữa các nước giàu và nghèo và nhất là sự tranh dành tài nguyên, trong
thời thực dân cổ điển cũng như thời chủ nghĩa đế quốc kinh tế mới. Từ
Marx đến Keynes, đến các nhà kinh tế thị trường đều có chung một niềm tin
là, nếu kinh tế phát triển, thì thiên đường sẽ xuất hiện, trong đó
không còn cảnh người bốc lột người. Các quốc gia sẽ không có lý do gì để
gây ra chiến tranh và sẽ có khuynh hướng hợp tác với nhau để xây dựng
hoà bình lâu dài.
Chúng ta tin rằng chỉ khi nghèo đói quá mức, không có gì để mất thì
con người mới quá khích liều mạng, nhưng khi tài sản chất chứa đầy nhà
và cần được bảo vệ, con người se trở nên bảo thủ hơn.
Nhiều nhà phê bình xã hội chế diễu thế hệ Baby Boomers, sinh sau thế
chiến thứ hai, trong các thập niên 60 và 70 hăng hái tham gia phong
trào hippy xuống đường chống chiến tranh và các lãnh tụ sinh viên trong
cuộc nổi dậy ở Pháp vào năm 1968, hiện trở thành những nhân viên cao
cấp trong chánh quyền, những người điều khiển các tổ hợp kinh tế lớn
trên thế giới và là những lãnh tụ chánh trị có lập trường càng lúc càng
bảo thủ hơn. Mặt khác, từ sau thế chiến hai, nhiều chiến tranh cục bộ
đã xảy ra, cho chúng ta thấy giấc mơ ‘phát triền hoà bình’ càng ngày
càng xa vời vợi.
Kinh tế xã hội hay kinh tế thị trường giống nhau ở chỗ là cả hai đều
khuyến khích và cổ vỏ tích lũy tài sản cá nhân hoặc quốc gia. Tham lam
là điều tốt (Greed is Good) và mánh mung là công bằng (Foul is Fair)
là phương châm hành động. Như Schumpeter khuyến cáo, những ai muốn bước
qua ngưỡng cửa kinh tế phải bỏ lại tình nghĩa, đạo đức bên ngoài. Tôn
giáo và đạo đức chỉ làm kỳ đà cản mũi, ngăn trở sự phát triển kinh tế,
chớ chảng có ích lợi gì!
Có điều là lòng tham thường không đáy, ít ai biết tri túc hay thiểu dục,
hay quyết liệt hơn, diệt dục như trong đạo Nho hay Phật. Thoạt nhìn
kinh tế Phật giáo là cụm từ gượng ép và lạc điệu. Không một cá nhân hay
một quốc gia nào chịu nói ‘tài sản của tôi đủ rồi’ vì không phải ai
cũng có định nghĩa về tri túc tiện túc như Nguyễn Công Trứ.
Khai Thác Tài Nguyên
Muốn phát triển thì cần phải có nhiên liệu để sản xuất, nhưng không
ai chịu đặt câu hỏi là liệu nguồn tài nguyên của trái đất có vô tận
không?
Ngay từ thập niên 60, Schumacher đã nhìn thấy nguy cơ các quốc gia
nuôi dưỡng một lối sống xa hoa ích kỷ nên đã khai thác tài nguyên một
cách phung phí. Theo thống kê mà Schmacher dẫn ra, vào năm 1966 các
nước giàu tiêu dùng 87% nhiên liệu trong khi dân số của họ chỉ chiếm
31%. Dân số các nước nghèo chiếm 69% nhưng mức tiêu thụ năng lượng chỉ
có 13%. Năm 2005, trong tác phẩm Half Gone, Jeremy Leggett,
nhà khoa học đầu đàn của tổ chức Greenpeace Anh Quốc đã báo động rằng
thế giới tiêu thụ 80 triệu thùng dầu mỗi ngày. Riêng Mỹ mỗi ngày tiêu
thụ 20 triệu thùng, tức là một phần tư tổng số. Nếu ước tính
theo mức tiêu thụ này thì vào năm 2025, mức tiêu thụ mỗi ngày của thế
giới là 120 triệu thùng hay 43 tỷ thùng mỗi năm. Hậu quả là không có
chánh khách Mỹ nào, Cộng Hoà hay Dân Chủ, không lăm le can thiệp bằng
cách này hay cách khác vào Trung Đông. Ngay cả cựu tổng thống Carter,
người được giải Nobel Hoà Bình, tuyên bố vào năm 1980 là việc thông
thương vào vùng vịnh là vấn đề sinh tử của Mỹ và để bảo vệ quyền lợi
này, Mỹ có thể dùng bất cứ phương tiện nào, kể cả võ lực. Khi cần bảo
vệ quyền lợi của Mỹ, Carter và Bush chẳng khác gì nhau. Năm 2006, trong
diễn văn hàng năm trước lưỡng việc quốc hội, TT Bush thú nhận là dân
Mỹ nghiện ‘dầu’ và Bush muốn giảm số dầu nhập cảng vào năm
2025 xuống còn 75%. Ngay ngày hôm sau Bộ Trưởng Bộ Năng Lượng Mỹ cải
chánh, đây không phải là lời hứa của TT Bush mà chỉ là ‘ước mơ’.
Lao Động
Một yếu tố quan trọng nữa để sản xuất là lao động. Các nhà sản xuất
xem lao động như là một ‘chi phí sản xuất’, không có không được, nhưng
để giảm giá thành, trả lương nhân công càng rẻ càng tốt. Để giảm chi
phí và tăng hiệu năng, nhân công phải làm việc theo phương pháp dây
chuyển, hay nếu sáng chế được robots tự động thì càng tốt. Robots làm
việc không biết mệt, miễn là được bảo quản kỹ lưỡng, không biết đòi
tăng lương, không tổ chức nghiệp đoàn để đình công. Các tổ hợp thương
mại dời các xí nghiệp qua các nước đang phát triển để dùng công nhân
rẻ, tha hồ bóc lột công nhân trong các sweatshops mà không phải bận tâm
về luật lao động. Trường hợp hãng giày Nike đã trả công nhân tại các
quốc gia như Indonesia, Nam Mỹ và Việt Nam với giá chết đói, các tổ
chức lao động thế giới phải lên tiếng tranh đấu dùm. Ngay cả gần đây
(2005) công nhân Việt Nam làm việc tại các xí nghịệp vốn nước ngoài
(FDI) than phiền là tuy mang tiếng làm việc cho các xí nghiệp ngoại
quốc, lương tối thiểu công nhân tại các xí nghiệp này còn thua lợi tức
của một người bán vé số lẻ! Không những thế các chánh phủ địa phương
còn phải cám ơn các xí nghiệp FDI rối rít vì đã giúp chánh phủ giải
quyết vấn đề công ăn việc làm cho một số công nhân. Đó không phải là
chuyện chỉ xảy ra ở nước nghèo. Chánh phủ Úc tài trợ hàng trăm triệu để
o bế các hãng sản xuất xe hơi để họ đừng đóng cửa và trong nhiều năm
qua đã tài trợ cho hãng sản xuất phim Kodak nếu hãng này đừng dời cơ sở
sản xuất sang các nước khác. Hiện nay (2012) hãng mô tô Toyota sa thãi
hàng ngàn công nhân và Kodak tuyên bố phá sản. Các xí nghiệp này luôn
miệng dọa là nếu chánh phủ không ‘biết điều’, họ sẽ dời nhà máy về một
quốc gia khác có công nhân rẻ hơn.
Ngược lại nhiều người xem lao động như là một gánh nặng chẳng đặng đừng và xem lương bỗng là hình thức bù trừ cho chuyện hy sinh không có thì giờ nghỉ ngơi.
Quan niệm về lao động theo kiểu này của chủ nhân và công nhân có hệ
quả quan trọng hơn chúng ta nghĩ. Công nhân xem làm việc như là một cực
hình, chủ nhân xem lao động như là phí tổn sản xuất. Một đàng muốn làm
việc càng ít càng tốt. Đàng kia muốn tăng hiệu năng để thâu dụng số
nhân công càng ít càng tốt.
Trong khi đó các nhà sư Đại Thừa tuyên bố ‘bất tác bất thực’. Bổ củi,
xách nước, thiền tập, rửa bát là những phương tiện giúp các thiền sinh
thực tập chánh niệm. Nếu phải làm việc để mưu sinh, nên xem làm việc
là phương thức phát triển kỹ năng và nhân cách, để giúp cá nhân học tập
tinh thần đồng đội mà Phật giáo gọi là Lục Hòa.
Dĩ nhiên lao động tạo ra những sản phẩm tiêu dùng cần thiết và lương
bỗng để chi dùng. Chủ nhân chỉ nhắm tới lời lỗ khi thu dụng công nhân,
chia công việc manh mún, làm mất cả ý nghĩa lao động và nếu cần đuổi
thì cứ đuổi, không tình nghĩa gì cả. Công nhân xem việc làm như là một
gánh nặng, muốn làm chơi ăn thiệt, thay vì xem thực ra lao động là một
quá trình hình thành nhân cách và tạo ý nghĩa cho đời sống. Đạo Phật
xem làm việc-nghỉ ngơi, lao động và giải trí là một quá trình không thể
thiếu của đời sống, có ăn-có làm-có chơi. Lao động và ý nghĩa đời
người có mối liên hệ khắn khít hơn là phương tiện kiếm tiền sinh sống
hay chỉ là chi phí cần giảm thiểu tới mức tối đa.
Lao động phát triển khả năng sáng tạo và là thức ăn cần thiết cho tâm
linh, như thực phẩm cần thiết cho sự duy trì khả năng hoạt động của cơ
thể. Những người không có việc làm, hay trốn tránh lao động, ngoài
chuyện không có lợi tức còn bị một thiệt thòi lớn khác nữa là không có
thức ăn cần thiết cho tinh thần.
Để sống một cuộc đời phát triển trọn vẹn thể xác-tâm linh, Phật giáo
muốn thực hiện một nền kinh tế trong đó những người nào muốn làm việc
sẽ có việc làm. Nhiều người nghĩ mô thức kinh tế này chỉ là điều mơ ước
viễn vông, nhất là khi các nhà kinh tế tư bản thị trường cho rằng tỷ
lệ thất nghiệp ‘lý tưởng’ là từ 2% đến 5%. Để giữ an ninh xã hội, kinh
tế an sinh sẽ được thiết lập để giúp đỡ những người cần được giúp đỡ.
Để giữ mức quân bình hệ thống, nhà kinh tế J.K. Galbraith trong The Effluent Society nói mạng lưới an toàn là cách đền bù những người thất nghiệp để họ có thể hưởng được những thành quả của tăng trưởng kinh tế.
Tăng Trưởng Kinh Tế và Công Ích Xã Hội
Kinh tế càng ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống cá
nhân cũng như xã hội và trở thành mối quan tâm hàng đầu của chánh quyền
khắp mọi nơi. Làm thế nào để cá nhân có được một đời sống đầy đủ về
vật chất, và trên bình diện quốc gia, làm thế nào nâng cao GDP để nuôi
dân chúng, và nếu có thể, theo kịp mức sống các nước tân tiến, trở
thành một ám ảnh ưu tiên. Hành vi của cá nhân hay chánh quyền đều được
đo theo tiêu chuẩn kinh tế hay phi kinh tế. Hành vi kinh tế là những
hành vi đem đến lợi lộc và hành vi phi kinh tế là hành vi làm thiệt hại
đến tư lợi. Lời hay lỗ trở thành thước đo hầu hết mọi giá trị. Những
gì hợp với tiêu chuẩn kinh tế thì được chấp nhận, cổ võ trong khi hành
động phi-kinh tế đều phải gạt bỏ ra ngoài và bị chê là ‘bất hợp lý’ vì
ngăn cản tăng trưởng và tiến bộ.
Mỗi nhà kinh tế đưa ra các mô thức kinh tế khác nhau mà họ nghĩ có
thể làm tăng trưởng kinh tế trong thời gian ngắn nhất. Đối với họ, kinh
tế là một ‘khoa học’, nếu không ngang hàng với Vật lý, ít ra cũng
ngang hàng với khoa sinh học tiến hóa của Darwin. Một đội ngũ chuyên
viên kinh tế có tinh thần khoa học được đào tạo trong các đại học qua
nhiều thế hệ đã trở thành đội ngũ không thể thiếu được trong việc điều
khiển guồng máy kinh tế.
Thoạt tiên, các quản trị viên CEO còn làm việc với các nhà chính trị
và chủ nhân các tổ hợp xí nghiệp lớn, nhưng trong các năm gần đây,
quyền quyết định của các nhà chính trị hay chánh phủ càng bị giới hạn.
Cơ quan WTO có thể kiện một chánh phủ nếu họ thấy luật lệ của một quốc
gia nào đó có thể làm ngăn cản ‘tự do mậu dịch’ và thiệt hại đến quyền
lợi của các tổ hợp. Vào cuối năm 2000 chánh phủ tiểu bang NSW Úc ký một
hợp đồng ‘phát triển’ với công ty khai thác hệ thống đường ngầm ở
Sydney. Trong hợp đồng có một điều khoản cấm bộ giao thông tiểu bang
NSW mở thêm các đường lân cận, nếu các tổ hợp thấy các việc cải thiện
này có thể giảm số lượng xe mô tô dùng các đường ngầm. Dân chúng còn
nghi ngờ là hệ thống đèn giao thông được sửa đổi để làm tăng nạn kẹt
xe, khiến tài xế hết kiên nhẫn và do đó buộc lòng phải dùng đường ngầm
cho xong chuyện. Một nhân viên CEO của tổ hợp phát triển các trung tâm
thương mại Westfield ở Úc đã công khai mắng mỏ một Dân Biểu trong buổi
điều trần tình trước Quốc Hội Tiểu Bang. Sự kiện này được loan truyền
trên các đài truyền hình tiểu bang. Úc là một cường quốc trung bình, có
mô thức dân chủ có thể nói là tốt nhất thế giới, tức hệ thống
Westminster. Nói chi đến những nước nghèo lỡ mang nợ IMF hay WTO. Chánh
phủ Zambia báo cáo là vào tháng 2 năm 2004, chánh phủ không thể thuê 9
ngàn giáo viên nhằm thoả mãn nhu cầu giáo dục cần thiết, không phải vì
không đủ ngân sách, mà vì IMF và World Bank đặt giới hạn tổng số tiền
chánh phủ Zambia có thể dùng vào ngân sách trả lương của công nhân
viên. Ngăn chặn việc tuyển dụng giáo chức của một nước nghèo Phi Châu
là một quyết định phi lý và điên rồ, nếu chánh phủ Zambia không phản
đối công khai trên tờ Post xuất bản tại thủ đô Lusaka thì ai tin nổi
chuyện này có thể xảy ra?! Có thể nói các tổ hợp quốc tế lũng đoạn
chương trình phát triển xã hội của tất cả các quốc gia trên mọi tầm
mức. Nhà nghiên cứu kinh tế Anh Noreena Hertz gọi đây là cuộc đảo chánh im lặng, trong đó quyền lo cho an sinh và công ích của chánh quyền địa phương bị toà án thương mại quốc tế giới hạn.
Nạn Nghèo Khó
Giả sử các mô thức này thực sự làm kinh tế tăng trưởng, nhưng không
có mấy nhà kinh tế chịu khó hỏi câu kế tiếp đó là ai là người thực sự
được hưởng thành quả của phát triển kinh tế?
Những người cổ võ kinh tế thị trường cứ lập đi lập lại khẩu hiệu tự
do mậu dịch sẽ làm giảm mức nghèo khó ở các nước đang phát triển. TT
Bush chỉ trích là những người biểu tình phản đối tự do mậu dịch không
phải là ‘bạn của người nghèo’. Họ nói những quốc gia nào chấp nhận toàn
cầu hóa đã tăng trưởng kinh tế và giảm mức nghèo đói. Không ai phủ
nhận là hai cường quốc đang lên, Trung Quốc và Ấn Độ trong 20 năm tới
sẽ là cường quốc kinh tế trong số 10 quốc gia đầu đàn, và đã giảm mức
nghèo khó của những người cùng đinh sống có mức thu nhập là 1 hay 2 đô
la mỗi ngày.
Trung Quốc là một mô thức đáng lưu ý và theo ý tôi, đáng học hỏi.
Trung Quốc và Mã Lai đã giới hạn chặt chẽ những đầu tư trực tiếp và
kiểm soát lưu lượng ngoại thương qua mức hạn ngạch (quotas) cần thiết
để bảo vệ kỹ nghệ sơ sinh nội địa.
Trên thực tế, tổ chức Heritage Foundation, cơ quan lớn tiếng
cổ động cho Tư Do Mậu Dịch thế giới, đã phê điểm Trung Quốc rất thấp
theo thang điểm ‘cởi mở thương mại’. Dani Rodrik, kinh tế gia đại học
Harvard vạch rõ là quốc gia đang phát triển nào dám ‘giới hạn’ mức nhập
cảng là quốc gia khá nhất trong thập niên 1990. Trung Quốc trong bao
nhiêu năm qua đã cưỡng lại áp lực của Mỹ bắt phải tăng giá đồng Nhân Dân
tệ, nhưng các nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn tỉnh bơ, cho tới gần đây
mới thả nổi chút ít! Kết quả là suốt 25 năm, kinh tế Trung Quốc đã phát
triển liên tục ở mức 9%, mặc dù vẫn kiểm soát chặt chẽ những thành
phần có tiềm năng gây rối loạn chính trị như giáo phái tạp nhạp Pháp
Luân Công (tương đương với Tin Lành Dega ở Việt Nam). Thấy mở được thì
mở, thấy cần đóng thì đóng, miễn là bảo vệ được quyền lợi của quốc gia
và nhất là cho công ích xã hội, dù phải chạm trán với WTO hay IMF.
Mã Lai cũng áp dụng biện pháp kiểm soát chặt chẽ không chịu thả nổi
tiền tệ như WTO áp lực, nhờ đó đã duy trì mức phát triển quốc gia và đã
tránh được cuộc khủng hoảng tài chánh vào năm 1997 đã khiến cho các
nước nhắm mắt theo kinh tế thị trường như Thái Lan sống dỡ chết dỡ.
Trong khi đó, các quốc gia phát triển như Mỹ và Âu Châu đã hí hửng khi
kinh tế tăng trưởng chừng 4%. Ai có thể dạy ai về các mô thức phát triển kinh tế đây?
Nhiều nhà phê bình kinh tế chế nhạo chế độ ‘tự do mậu dịch’ vừa chẳng
tự do vừa chẳng công bằng. Sao không hỏi chánh phủ Mỹ và Âu Châu đã tài
trợ bao nhiêu cho các nông gia và các tổ hợp nông phẩm Mỹ? Sao không
áp lực WTO để Mỹ và Âu Châu chịu cho các nước nghèo xuất cảng ‘tự do’
thả cửa nông phẩm vào thị trường của hai nước này! Trong khi ‘kiện
thưa’ chánh phủ Việt Nam bán tháo bán đổ tôm vào thị trường Mỹ, trong
khi dùng kiểm dịch để làm khó làm dễ cá Ba-Sa ở Mỹ và Úc vừa rồi.
Nếu nhìn gần và nhìn rõ, trong hai mươi năm qua, ngay cả ở các nước
tiên tiến kỹ nghệ Tây Phương, tỷ lệ người nghèo không những không giảm
mà còn tăng thêm. Tình cảnh dân da đen ở New Orleans cho thấy bộ mặt
thật của nước Mỹ. Đàng sau lợi tức hàng tỷ của các tổ hợp thương mại,
đàng sau con số lợi tức mỗi đầu người trên thống kê, hàng triệu người da đen sống nghèo khổ như dân chúng trong các nước thứ ba. Trong
đám tang của bà Coretta Scott, phu nhân của Mục sư Martin Luther King,
được cử hành vào ngày 7/2/2006, có sự tham dự của TT Bush, và các Tổng
Thống tiền nhiệm như Bush cha, Carter và Clinton. Carter, người được
giải Nobel hòa bình, đã chua chát nhận xét: ‘Chúng ta chỉ cần nhớ
lại mầu da của các khuôn mặt nạn nhân của trận bão Katrina ở các vùng
Louisana, Alabama và Mississipi, chúng ta có thể nhận ra rằng không phải
tất cả dân Mỹ đều hưởng được cơ hội đồng đều’ (SMH 9/2/06). TT
Bush không có lý do gì để ‘lên lớp’ các quốc gia khác về nghèo khổ: nếu
một nước giàu có như Mỹ, có GDP tính theo đầu người cao nhất (37,870
theo dữ liệu mới nhất của World Bank vào năm 2005), mà vẫn có những
người da đen nghèo như ở New Orleans, Mỹ không có lý do gì để Mỹ khoa
trương về khả năng giảm nghèo đói của tự do mậu dịch. Điều nghịch lý là
những người cổ động giảm nghèo đói không phải là chánh phủ các nước
tiên tiến, mà là các nhân vật nổi tiếng khác. Sir Gusdorf và Bill Gate
là hai trong số các người tổ chức đại nhạc hội yêu cầu các quốc gia G8
xóa nợ cho các nước Phi Châu. Các cường quốc này hứa sẽ xóa sổ nợ, nhưng
tới nay phần lớn vẫn còn dậm chân tại chỗ.
Giá Trị Kinh Tế và Giá Trị Xã Hội
Các lý thuyết gia kinh tế tân cổ điển cho rằng hai yếu tố quyết định
ảnh hưởng đến chọn lựa là ‘hợp lý’ và ‘tăng tư lợi tối đa’. Kinh tế chỉ
để ý đến ‘giá trị thị trường’ mà không để ý đến những giá trị phi-kinh
tế, như giá trị xã hội và đạo đức. Người mua chỉ muốn mua rẻ, người
bán muốn bán giá cao để có lời nhiều. Ai cũng chỉ lo bảo vệ tư lợi của
mình, không ai hơi đâu lo đến quyền lợi kẻ khác. Đối với các nhà kinh
tế thị trường, những châm ngôn như ‘một người vì mọi người’ vừa sáo,
vừa không thực tế và ‘phi-kinh tế’. Không thương gia nào hạ giá cho
khách hàng chỉ vì họ nghèo quá không đủ tiền mua. Những ai có tinh thần
quốc gia muốn mua sản phẩm nội địa dù với giá mắc hơn hàng ngoại, sẽ
bị phê phán là quốc gia…cực đoan, không chịu ‘hội nhập’ trong thời đại
toàn cầu. Cái gì hội nhập cái gì, hội nhập ra sao, ai sẽ có lợi…Hội
nhập trở thành đại thần chú thời đại. Những khách hàng nào không chịu
mua những sản phẩm do cưỡng bách lao động, do công nhân là những tù
nhân hay lao động trẻ em sẽ bị chê bai là .. quân tử Tầu, thiếu thực
tế, cái gì tốt mà rẻ thì cứ mua, băn khoăn làm gì. Ngoài bản thân,
không ai chịu trách nhiệm cho ai. Mọi hoạt động kinh tế đều dựa trên
yếu tố lời lỗ, tình nghĩa đều là phi-kinh tế. Con người kinh tế Homo economicus
chỉ còn là đám ngạ quỷ tranh nhau ăn, tranh nhau tích lũy của cải,
quốc gia tranh nhau tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, kể cả cái giá mắc
nhất là làm tăng thêm cái hố ngăn cách giữa người giàu và nghèo. Con
người kinh tế cả đời chỉ tính trăm mưu ngàn kế để bảo vệ tư lợi. Kinh
tế thị trường mà, tham lam là điều tốt, mánh mung là chuyện dĩ nhiên.
Có thực sự chúng ta muốn tăng trưởng để tạo ra một xã hội đầy ngạ quỹ
như thế?
Các nhà kinh tế tân cổ điển (neo-cons) cũng luôn nhấn mạnh đến yếu
tố phi-giá trị, khoa học và tất nhiên của khoa kinh tế, nhưng bất cứ lý
thuyết hay mô thức nào cũng đều dựa trên những giả định, lòng tin mà Schumacher gọi là nền tảng siêu hình kinh tế. Đó là giả định về bản tính thiên nhiên của con người và hướng đi, hay biện chứng tiến bộ lịch sử.
Trong truyền thống Đông Phương, Khổng Tử và Mạnh Tử đều cho con người
‘tính bản thiện’, ‘tính tương cận, tập tương viễn’, Mạnh Tử cho rằng
con người có cái tâm ‘bất nhẫn’ thấy một đứa trẻ sắp rơi xuống giếng
thì không thể nào không cứu. Đạo Phật chủ trương mọi loài đều có Phật
tính - chỉ cần trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành
Phật. Chủng tử thiện hay ác đều có trong chúng ta và nhờ quá trình tu
tập, Phật tử có thể loại bỏ dần dần chủng tử bất thiện, tưới tẩm chủng
tử từ và bi, và một ngày đẹp trời nào đó, mây bay đi và ‘tuệ nhật tự
chiếu’.
Các nhà kinh tế hay triết lý Tây Phương cũng có những giả định tiểm
ẩn như các hiền giả Tây Phương. Marx có những giả định về sự tiến bộ
tất yếu của lịch sử: nhân loại kết thúc ở xã hội đại đồng, trong đó
không còn chuyện người bóc lột người, không còn cảnh dành nhau miếng
cơm manh áo, mọi người làm việc theo khả năng, hưởng thụ theo nhu cầu.
Giấc mơ của Marx tương tự thời đại hoàng kim của thời huyền sử Nghiêu
Thuấn. Các nhà kinh tế tư bản thị trưòng dùng thần học Tin Lành để giải
thích tại sao con người cần được cứu chuộc qua việc tích lũy tài sản.
Từ Marx, Weber và các nhà kinh tế thị trường như Keynes, Samuelson đều
tin rằng, nếu được hưởng đầy đủ tiện nghi vật chất, con người sẽ hiền
lương hơn và thế giới không còn tranh chấp quyền lợi và tranh đoạt tài
nguyên nữa. Đó là con đường phát triển đế tiến tới hòa bình.
Max Weber
Sử gia văn hóa Mỹ, Francis Fukuyama, phát quyết một câu xanh dờn sau
khi chiến tranh lạnh chấm dứt là, lịch sử con người đã tới hồi kết thúc
với mô thức chánh trị dân chủ và kinh tế thị trường! Fukuyama sau đó
không kèn không trống viết thêm một cuốn sách khác về tạo sinh vô tính.
Bởi lịch sử không thề dừng lại và viễn tượng tạo sinh vô tính (cloning)
làm cho tương lai con người càng mịt mùng bất định hơn. Một nhà lịch
sử văn hoá khác, Hungtington, nhìn lịch sử hiện nay qua sự chạm trán
ngoạn mục giữa các nền văn minh, xem cuộc chạm trán này sẽ quyết định
tương lai nhân loại.
Lịch sử rồi sẽ kết thúc ở đâu khi các nhóm tôn giáo quá khích cho là
chỉ có tôn giáo mình nắm bắt được chân lý. Cuộc đời vẫn cứ trôi, lịch
sử vẫn tiếp diển, máu vẫn chảy thành sông chỉ vì lòng cuồng tín cho
mình nắm giữ sự thật. Tham vọng chấm dứt lịch sử bằng ý hệ này hay ý hệ
khác, bằng thần học này hay thần học khác, chỉ là ảo ảnh của người đi
trong sa mạc. Giả định ‘thần học’ của các nhà kinh tế tư bản thị trường
thực ra không có ‘tính khoa học’ nhiều hơn hay ít hơn các giả định
siêu hình của Khổng Tử hay Đức Phật. Tuy nhiên chỉ có những hiền triết
Đông Phương, như Khổng tử dám nói ‘Thiên hà ngôn tai’ (Trời có nói gì
đâu?) hay Đức Phật ‘Bốn mươi lăm năm nay ta có nói lời nào đâu’.
Khoa Học hay Thần Học?
Vì xem rằng kinh tế như một khoa học, các nhà kinh tế tư bản cho rằng tiến trình và hậu quả kinh tế đều tất định,
không ai có thể thay đổi hay ngăn cản được. Thảo nào có nhiều người
chép miệng than thở ‘kinh tế thị trường mà’ nhưng xem quá trình toàn cầu
hóa như là chuyện dĩ nhiên, không thể nào tránh khỏi, không thế nào
thay đổi được. Về điểm này, ngay từ năm 1977 Schumacher cho là các nhà
kinh tế này bị mắc bệnh ‘mù loà thần học’ không chịu nhìn nhận
là, ở phía sau mỗi mô thức hay lý thuyết kinh tế đều có giả định siêu
hình, như ẩn dụ mà Gandhi đã dùng trong khi đề cập đến chánh trị. Siêu
hình kinh tế cũng giống như con rắn quấn quanh mình chúng ta, muốn tránh
cũng không tránh được. Đó cũng là lý do tại sao Schumacher nói Tây
Phương có thần học Tìn lành, nên họ có nền kinh tế tư bản. Còn các nước
theo Phật giáo, lẽ ra cũng phải có một nên kinh tế tương ứng, lại cứ
nhắm mắt chạy theo ‘đại thần chú’ kinh tế thị trường. Đến đây chúng ta
thấy Schumacher đã lội ngược cơn sóng thần toàn cầu hóa trước khi chủ
nghĩa Thatcher và Reagan cất cánh. Thông thường thể chế chánh trị được
nối kết với mô thức kinh tế: dân chủ- tư bản, xã hội chủ nghĩa-kinh tế
chỉ huy. Nhưng khi xét đến lịch sử kinh tế từ Marx đến Keynes, qua
Samuelson, ngay cả đến các ‘tổ sư’ kinh tế thị trường ở Đại học Chicago,
chúng ta thấy sự liên hệ kinh tế- chánh trị không đơn giản như vậy.
Trong 25 năm qua, Trung Quốc vẫn duy trì chế độ Cộng sản và kinh tế của
Trung Quốc vẫn liên tục hàng năm từ 9 tới 9.5%, trong khi tăng trưởng
kinh tế Mỹ khi trồi khi sụt trên dưới 4%. Như vậy mô thức tăng trưởng
không nhất thiết phải là mô thức dân chủ Tây Phương, và nhất là mô thức
Mỹ. Mã Lai cũng thi hành một chiến thuật tương tự, và đã duy trì mức
tăng trưởng kinh tế mà không bị rơi vào cơn khủng hoảng kinh tế Á Châu.
Nhưng điều cần minh định ở đây dù chiến thuật lập đi lập lại khẩu hiệu
‘hội nhập’ của các kinh tế gia thị trường trong và ngoài nước có nhiều
lỗ hổng, nhưng về lâu về dài, muốn phát triển kinh tế và chia cái bánh
phát triển tương đối đồng đều một cách có thể được, chánh quyền cần
thực hiện một ‘xã hội mở’ mà nhà đầu tư George Soros đã kêu gọi. ‘Xã
hội mở’ sẽ đóng góp vào chỉ số an sinh, mức đo hạnh phúc chính xác hơn
là con số trừu tượng GNP.
Trên thế giới có nhiều mô thức chánh trị mở để lựa chọn, như hệ thống
dân chủ Mỹ, hệ thống Westminster của Anh và Úc, hệ thống dân chủ xã
hội như Bắc Âu và Tây Âu.
Nếu lấy yếu tố chỉ số an lạc (Well-being) làm tiêu chuẩn, hệ thống
dân chủ ‘sống chết mặc bây’ của Mỹ là hệ thống nên được xếp ở bậc thang
cuối cùng. Cứ nhìn hình ảnh ở New Orleans thì rõ. Một quốc gia giàu
nhất thế giới mà không lo nổi an sinh cho dân mình sống nghèo khổ như
người dân ở các quốc gia thứ ba, không đáng làm mô thức gương mẫu. Hội
nhập không có nghĩa tích hiệp vào một hệ thống chính trị và kinh tế mà
mãi đến năm 2006, cựu tổng thống Carter phải thú nhận: không phải người
Mỹ nào cũng hưởng thành quả của kinh tế thị trường. Tôi nghĩ đến lời
Phật dạy trong phẩm Sư Tử Hống khi biết là hiện có một triệu người (sáu
con số không!) hiện đang bị giam trong các nhà tù Mỹ: những bất an xã
hội, như trộm cướp, là vì dân không đủ ăn, không đủ mặc, không được
chăm sóc sức khỏe và không được đi học. Trước khi nói cần hội nhập kinh
tế thị trường và mô thức dân chủ Tây Phương, chánh phủ nên dành năng
lực để thực hiện chỉ số an sinh, thay vì chỉ nhắm đến con số trừu tượng
như GNP hay các ý niệm trừu tượng khác như nhân quyền kiểu Tây Phương.
Dù theo mô thức xã hội mở như thế nào, cần phải thực hiện được mạng
lưới an toàn về giáo dục và y tế cho người nghèo. Điều thú vị là trong
chiến dịch tranh cử vào cuối năm 2012, Tổng Thống Obama đã dùng khẩu
hiệu ‘người giàu (có thu nhập hơn 1 triệu đồng mỗi năm) phải đóng thêm
thuế ‘như người nghèo’.
Khi Wangchuck đăng quang quốc vương Bhutan và tuyên bố là ông quan
tâm đến chỉ số hạnh phúc quốc gia, nhiều người chế diễu là thái độ ghen
tỵ ‘nho chua’, vì tổng số GNP của Bhutan là 2,7 tỷ. Tuy nhiên tờ Time
số ngày 18 tháng 1 năm 2005 cho biết bộ tham mưu tư duy (Think Tank)
của tổ chức New Economic Foundation thúc đẩy việc thiết lập một chỉ số
an lạc (Wellbeing index) gồm thêm những yếu tố khác như mức độ hài
lòng, tin cậy và tham dự của dân chúng vào các chánh sách công quyền,
và thủ tướng Anh Tony Blair chủ trì một buổi họp sơ bộ về mức độ hài
lòng của dân chúng đối với chánh sách công quyền vào năm 2002. Richard
Easterlin, Giáo sư Kinh Tế của Đại Học Southern California muốn thêm
một số tín hiệu vào chỉ số an lạc như sự hài lòng về các mối liên hệ cá
nhân, việc làm, ý nghĩa đời người. tăng trưởng mức sống vân
vân… vào chỉ số an lạc. Phát ngôn viên của nhóm NEF cho biết các chánh
phủ Pháp, Đức, Hòa Lan đang cứu xét đến đề nghị này.
Khi kinh tế định chế (Institutional economic) được các nhà kinh tế
bắt đầu được đề cập, nhiều ý tưởng của Schumacher về đạo đức, văn hóa
và tôn giáo bắt đầu đóng vai trò quan trọng trong phân tích hoạt động
kinh tế. Joseph Stiglitz, sau nhiều năm làm việc với World Bank và là
cố vấn cao cấp của chánh phủ Clinton, tuyên bố ‘thế kỷ thứ 21 là thế kỷ
của kinh tế định chế’. Không phải chỉ có một mình Stiglitz, còn nhiều
người đoạt giải Nobel cũng bắt đầu xét lại những giới hạn của kinh tế
thị trường. Mối quan tâm của Phật tử về mối liên hệ giữa mô thức kinh
tế định chế và tư tưởng tinh yếu của Phật giáo như thuyết duyên khởi,
có thể góp phần nghiên cứu trong kinh tế định chế hay không?
Tàn Phá Sinh Thái
Hoạt động kinh tế liên hệ chặt chẽ với hoạt động của con người trong
hoàn cảnh sinh thái, Schumacher đề nghị có hai yếu tố chính cần được
nghiên cứu để xây dựng nền tảng siêu hình: con người và sinh thái. Tất
cả lý thuyết dự phóng về kinh tế đều phải liên hệ đến hai yếu tố này.
Nói khác đi, nghiên cứu kinh tế phải qui chiếu vào ý nghĩa của nhân
sinh. Vì chỉ chú ý đến thị trường và giá cả, các nhà kinh tế quên rằng
đối tượng phục vụ cuối cùng của kinh tế hay bất cứ một ngành nào khác,
là con người. Không ai không đồng ý với mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
nhưng các nhà kinh tế không thể không trả lời câu hỏi ‘phát triển cho
ai’? Schumacher dẫn lại lời phê bình của Phelps Brown trong bài diễn văn Những Khuyết Điểm của Kinh Tế Học đọc
trước Hội Nghị Kinh Tế Hoàng Gia Anh, cho là phát triển kinh tế trong
vòng 25 năm qua đã không trả lời bốn vấn nạn căn bản là ảnh hưởng nguy
hại lên sinh thái, phẩm chất đời sống trong xã hội kỹ nghệ phát triển,
mức tăng trưởng dân số và quá trình đô thị hóa.
Schumacher phê phán nặng lời là kinh tế tân cổ điển (neo-cons) không
những không có đóng góp quan trọng nào để giúp chúng ta hiểu mà còn
ngăn cản chúng ta hiểu biết về các vấn đề này, vì đã gạt các câu hỏi
trên khỏi lĩnh vực nghiên cứu kinh tế và chỉ chú tâm vào phân tích định
lượng và không chịu nhìn thẳng vào ‘bản chất của vấn đề’. Schumacher
đã đi trước đồng nghiệp khác trong việc phê phán khuyết điểm của kinh
tế tân cổ điển gần 20 năm.
Sự khai thác bừa bãi nhiên liệu đã tạo ra những hậu quả không thể vãn
hồi cho sinh thái. Những con sông trong các bài hát lãng mạn bất hủ
của Strauss hay mơ mộng của Phạm Duy ‘được chết trong lòng người đẹp Tô
Châu hay chết trên dòng sông Danube, những đêm sáng sao’ sẽ sớm thành
những hồi niệm: những dòng sông xanh chỉ còn là những con kinh nước
đen, lềnh bềnh những chất thãi kỷ nghệ. Ngay từ năm 1977 Schumacher đã
suy nghĩ những điều này khi lên tiếng đi ngược lại với cơn sóng thần
toàn cầu hóa. Triết lý tăng trưởng vô hạn phải được xét lại trong nhãn
quan mới, qua hai câu hỏi căn bản: khả năng cung cấp tài nguyên của địa
cầu và sự tổn hại sinh thái gây ra do sự tăng trưởng thiếu kiểm soát.
Các tổ hợp khai thác các tài nguyên dùng một lần như than đá, dầu,
chất đốt, uranium làm như thể những tài nguyên này vô tận. Ngay cả các
tài nguyên tái tạo như gỗ cũng bị khai thác tận tình, nhiều khi chỉ để
làm gỗ vụn hay tăm xỉa răng. Nhất là Nhật dùng tiền để khai thác gỗ ờ
những quốc gia khác như ở Nam Mỹ, Indonesia, Thái Lan, Cambodia và ngay
cả Úc, trong khi chánh phủ Nhật cấm ngặt không ai được đụng tới cây
cảnh ở nước mình. Đảng Lao Động Úc trong năm 2003 đã thất cử nặng nề vì
dám chủ trương chánh sách bảo vệ rừng, và những người chống đối không
ai khác hơn là các công nhân khai thác gỗ, từ trước đến giờ vốn mạnh mẽ
ủng hộ đảng Lao Động! Không ai chống chuyện khai thác gỗ, miễn là có
chánh sách trồng rừng hợp lý.
Mối nguy cơ cho bầu khí quyển hiện nay là việc thải chất đốt. Viễn
tượng nhiệt độ địa cầu càng ngày càng tăng là mối lo ngại chính yếu. Mặc
dù bằng chứng khoa học cho thấy hiện tượng tăng nhiệt độ có thực, hiện
vẫn còn hai nước tiên tiến vẫn không chịu ký hiệp định thư Kyoto là Mỹ
và Úc. Một mặt chánh phủ Mỹ tiếp tục cho rằng bằng chứng chưa đủ
thuyết phục và mặt khác bịt miệng những nhà khoa học nào dám công bố
kết quả của các công trình nghiên cứu về khí hậu, xác nhận hiện tượng
khí quyển tăng nhiệt độ, như trường hợp Trưởng ban nghiên cứu khí hậu ở
cơ quan NASA. Mỹ còn rủ các nước đang có mức tăng trưởng kinh tế nhanh
nhất, là Ấn Độ và Trung Quốc, xé rào hiệp định thư Kyoto và lập thành
một khối mới để đối phó với hiện tượng trái đất nóng dần. Các
nguyên thủ của các nước này làm như thể khi địa cầu bị tổn hại, khi khí
hậu thay đổi bất thường, sinh thái tại quốc gia họ không hề hấn gì!
Phải chi họ chịu khó nghiên cứu lý duyên khởi của Phật giáo.
Kiểm Soát Nhân Số
Vấn đề đáng quan tâm nữa là nhân số mà Malthus đã cảnh cáo vào thế kỷ
trước. Dân số của ‘hành tinh xanh’ hiện nay đã vượt qua con số 7 tỷ.
Nhà nhiều miệng ăn thì phải sản xuất nhiều, dùng nguyên liệu nhiều và
hủy hoại sinh thái đến nổi có nhiều giống cây cỏ và thú vật không còn
nơi trú ngụ và đến mức tuyệt chủng. Thế nhưng có một vài tôn giáo vẫn
nhất quyết không chịu chấp nhận tham gia chương trình kế hoạch hóa gia
đình để kiểm soát dân số. Liên minh các tổ chức gọi là Pro-Life (Bảo vệ
đời sống) tích cực vận động chánh phủ Úc chấm dứt phụ cấp thuốc phá
thai RU468. Tại hội nghị kiểm soát dân số tổ chức ở Cairo, người ta
nhận thấy có sự liên minh của các tôn giáo chống các biện pháp kiểm
soát dân số. Đây là một liên minh kỳ quặc vì trên bình diện chính trị
và quân sự, hai khối này xem nhau như hai kẻ thù không đội trời chung.
Trên thực tế tại các nước giàu, tỷ lệ sinh sản trở nên trung hòa, nghĩa
là mức tử vong và mức sinh sản gần bằng nhau. Tỷ lệ con cái trong mỗi
gia đình Tây Phương là 1.5 con/gia đình. Tại các nuớc nghèo, như Ấn Độ,
tại quốc gia mà dân chúng vẫn còn tin theo thần học lỗi thời như
Pakistan, tiếp tục sinh năm đẻ bảy và mức tăng gia dân số vượt bực có
thể làm nguy hại đến viễn tượng phát triển kinh tế.
Cái vòng lẩn quẩn là, người nghèo và ít giáo dục càng có khuynh hướng
sinh con nhiều, càng sinh con nhiều thì càng nghèo, điều này rất đúng
dù là trên bình diện gia đình hay quốc gia.
Thành Thị và Nông Thôn
Schumacher viết Small is Beautiful vào năm 1973 trong lúc phong trào toàn cầu hóa mới bắt đầu nên ông rất quan tâm đến vấn đề đô thị hóa.
Quá trình đô thị hóa tạo nên một nền kinh tế song đôi, trong đó lợi
tức, lối sống khác nhau như thể dân quê và dân thành phố đang sống ở hai
quốc gia khác nhau. Đây không phải đơn thuần là chuyện sống chung giữa
hai giới nghèo và giàu. Đây là hai thế giới với hai nền văn hóa cách
biệt. Tỷ lệ dân thành thị nông thôn có thể lên đến 85/15, ngay cả ở các
nước giàu. Sự phát triển đô thị tàn phá cơ cấu kinh tế nông thôn và dân
quê phải bắt buộc chọn, hoặc là ở lì lại các vùng quê, không có cơ hội
tìm việc làm khả dĩ đủ nuôi sống gia đình, hoặc là chóa mắt với ánh
sáng kinh thành, kéo nhau về thành phố kiếm sống. Những lưu dân này dần
dần trở nên mất gốc mất rễ. Schumacher do đó cổ võ cho việc phát triển
kỹ nghệ ở mức vừa phải. Ông nói các nước nghèo không nên bước chân
theo những lỗi lầm của các nước phát triển kỹ nghệ, hối hả theo đuổi
kinh tế thị trường thả ga mà không cần để ý đến những hậu quả tệ hại về
mặt xã hội. Gần ba mươi năm sau cơn sóng thần toàn cầu hóa đã khiến
cho mô thức kinh tế chú trọng đến con người của Schumacher thành những
tiếng kêu lạc lõng. Sự xuất hiện của những tổ hợp đa quốc gia khổng lồ
khiến cho ý niệm small is beautiful không giống ai! Với khẩu hiệu Greed is Good và Fair is Foul, kinh tế thị trường đã thu hẹp Homo Sapiens (Con người tư duy) thành Homo Economicus (Con người kinh tế),
như đàn ngạ quỹ háu ăn cấu xé nhau vì tiện nghi vật chất. Có quá muộn
để các nước như Việt Nam thực hiện một mô thức tăng trưởng kinh tế với
một bộ mặt nhân bản hay không? Is Small still beautiful?
Kinh Tế và Đạo Đức
Schumacher cảnh cáo là ‘những tật xấu như ham muốn quá mức, đố kỵ và
ghen ghét nếu được khuyến khích sẽ gây băng hoại về mặt trí tuệ và từ
bi. Tham lam che lấp khả năng nhận sự vật ‘đúng theo bản chất của
chúng’. Nếu cả một xã hội bị ô nhiễm vì lòng tham lam, dù thực hiện được
những tiến bộ đáng kể, nhưng lại không có khả năng giải quyết những
vấn đề căn bản của cuộc sống hàng ngày’. Không cần phải đọc giữa hai
dòng chữ, người Phật tử đều có thể hiểu là điều mà Schumacher gọi là
‘không nhìn sự vật đúng theo bản tính của chúng’ chính là thiếu chánh
kiến trên con đường hành trì Bát chánh đạo. Schumacher không phải ngẫu
nhiên chọn Phật giáo làm tư tưởng chủ đạo việc phát triển kinh tế.
Chánh kiến là đầu mối đưa đến những cái ‘chánh’ khác, và trong kinh tế,
đó là CHÁNH MỆNH. Trong Small is Beautiful, Schumacher nói là
ý niệm chánh mệnh đã khiến ông chọn lựa tư tưởng Phật giáo để làm nền
tảng ‘siêu hình’ cho kinh tế. Hơn ai hết, Schmacher biết là thần học
Tin Lành đã bị chủ nghĩa tư bản bóp méo và phát triển kinh tế càng ngày
càng đưa đến một thế giới bạo động. Chỉ có ‘siêu hình’ kinh tế dựa
trên Phật giáo mới tạo ra một thế giới giản dị và hòa bình. Nói đúng
hơn, nhờ sống giản dị nên mới có an lạc thân tâm, hoà bình thế giới.
Đâu Phải Sự Tình Cờ
Tại sao Schumacher chọn Phật giáo mà không đế cập đến thần học Tin Lành, như Weber và các nhà kinh tế tân cổ điển?
Vào đầu thập niên 80, kinh tế thị trường được phát động mạnh mẽ dưới
sự cổ động và đạo diễn hai nguyên thủ của hai cường quốc tư bản mạnh
nhất toàn cầu, Margaret Thatcher và Ronald Reagan. Dám đi ngược lại cơn
sóng thần toàn cầu hóa có lẽ một phần do Schumacher cố vấn cho các
nước đang mở mang, nhất là khi làm việc ở Miến Điện và thấy được tiềm
năng của tư tưởng đạo Phật. Một phần khác vì các nước đang phát triển
nóng lòng đuổi bắt mức tăng trưởng kinh tế của các nước giàu mà không
chịu để ý đến hoán cảnh xã hội và định chế văn hoá của mình. Chánh
quyền các nước vừa thu hồi độc lập xem kinh tế thị trường là chiếc đũa
thần để vượt qua nghèo đói.
Schumacher nói ông chọn tư tưởng Phật giáo tại vì tư tưởng Phật giáo
có sẵn đó nên ông ‘khai thác’ làm nền tảng siêu hình kinh tế,và nói là
bất cứ tư tưởng thần học của bất cứ một ‘tôn giáo nào’ cũng có thể dùng
được để điều hướng phát triển, nghĩa là vấn đề chính là mối liên hệ
giữa kinh tế và đạo đức.
Dĩ nhiên đây chỉ là một cách nói lịch sự. Thần học Tin Lành đã bị các
kinh tế gia thị trường vo tròn bóp méo, thay vì có đời sống thanh bạch
như tư tưởng Thanh Giáo chính thống. Schumacher cho rằng khâu Chính
mệnh trong con đường Bát Chánh Đạo là khởi điểm cho những suy nghĩ của
ông về một mô thức kinh tế Phật giáo. Trong khi Đức Phật còn tại thế,
kinh tế còn đơn giản, nhưng Đức Phật đã khuyến cáo đệ tử không nên làm
các nghề không chính đáng như bán thịt, bán vũ khí, bán rượu và buôn
người. Trong nhiều đoạn kinh khác, Đức Phật còn đưa các lời khuyên cụ
thể làm thế nào để sống một cuộc đời thanh bạch hạnh phúc, cũng như
Aristotle đặt vấn đề với đệ tử mình ‘nên sống cuộc đời như thế nào’.
Đức Phật xem tiện nghi vật chất chỉ là phương tiện để chúng ta có điều
kiện tinh tấn trên con đường tu tập giải thoát tâm linh. Vật chất chỉ
là phương tiện chớ không phải là mục đích tối hậu của đời người. Các
nhà biện chứng như Marx và thần học Tin Lành, hay của các nhà kinh tế
thị trường, cho rằng sự sung túc vật chất trong đời sống cá nhân hay
quốc gia có thể đem đến hạnh phúc cá nhân hay hòa bình thế giới. Theo
đạo Phật khi thân tâm không an lạc, dù giàu có đến mức nào, chúng ta
vẫn không cảm thấy hạnh phúc. Đời sống tại các nước giàu nhất hiện nay
cho thấy rằng sung túc không đồng nghĩa với hạnh phúc. Những nước có
chỉ số an sinh cao nhất không phải là Mỹ, mà là các quốc gia Bắc Âu và
Tây Âu, trong đó GNP mỗi đầu người chỉ bằng 2/3 của Mỹ. GNP mỗi đầu
người tại Thụy Điển là 28,910 trong khi GNP môi đầu người của Mỹ là
37,870. Thụy Điển là quốc gia có chỉ số an sinh cao nhất và Mỹ không có
tên trong danh sách 10 nước đứng đầu về đời sống an lạc.
Tuy nhiên Đức Phật phải là không để ý việc tạo dựng một xã hội sung
túc. Trong Trường Bộ Kinh, phẩm Chuyển Luân Thánh Vuơng Sư Tử Hống, Đức
Phật có nhắc đến đến một vị quân vương dùng chánh pháp trị nước, ‘không
dùng trượng hay dùng kiếm’. Người cai trị phải được xem như là người
‘bảo vệ hợp pháp cho nhân dân, cho quân đội, thôn dân, thị dân và cho cả
muông thú!’ Có hưng thì có phế, có thịnh thì có suy, tất cả đều tùy
thuộc vào nghiệp lực, hay hành động của những người có trách nhiệm. Phẩm
Sư Tử Hống đưa ra những lý do có thể làm một triều đại hưng hay phế:
nếu ‘quần thần’ sống nhờ ‘bùa chú’, nếu an sinh của dân chúng không còn
được bảo vệ, nếu nạn nghèo đói lan tràn, đó là dấu hiệu suy tàn. Bần
cùng sinh đạo tặc, nghèo khó là nguyên nhân sinh ra bất ổn về xã hội và
nếu quan quân phản ứng bằng cách dùng vũ lực, bọn trộm cắp sẽ dùng dao
kiếm để hành nghề đạo chích. Những chế độ tàn độc gây ra nghèo khó là
nguyên nhân chính của tất cả rối loạn hay cách mạng. Hoàng đế A Dục là
người áp dụng những lời dạy của Đức Phật về chánh sách cai trị bằng
chánh pháp trong lịch sử.
Schumacher cũng nhận xét là, sau khi giải thực rồi, chánh quyền các
nước Á Châu thường nhờ các cố vấn kinh tế Tây Phương, như Schumacher,
lập kế hoạch phát triển quốc gia theo mô thức Tây Phương. Không có một
lãnh tụ nào chịu nghĩ là lối sống Phật tử có thể dùng làm nền tảng căn
bản cho một nền kinh tế Phật giáo.
Năm 1996, tình cờ đọc được Small is Beautiful, nhất là chương Buddhist Economics,
tôi nhớ đến đoạn văn Người Cùng Tử trong kinh Pháp Hoa. Trong nhà có
viên ngọc quý mà không chịu đem ra xài, chạy quanh chạy quất đi tìm hết
đông tới tây, vọng ngoại, thiếu tự tin vào vốn liếng văn hoá và đạo học
của dân tộc. Lúc đó tôi còn bận sưu tập tài liệu để viết cuốn Vietnamese Engaged Buddhism, nên chỉ viết bài điểm sách sau khi Small is Beautiful
phát hành được gần 20 năm. Nếu Đạo Phật có thể cung cấp con đường chính
trị tình thức, tại sao lại không thể cung hiến một mô thức kinh tế
tỉnh thức và đầy nhân tính hơn là mô thức kinh tế khích động lòng tham,
khiến con người mãi trầm luân trong tiêu thụ. Một thi sĩ Nhật có nói
một câu đánh động tâm thức của tôi: “Ngày nay Bồ Tát có thể là một nhà
kinh tế”. Bồ tát không phải chỉ là một lý tưởng, mà có thể là con người
bằng xương bằng thịt, sống ở đây bây giờ với chúng ta, và nhờ thế mới
nghe được tiếng kêu than của chúng sinh, và mới phát khởi lời nguyện ‘chúng sinh vô biên thề nguyện độ’.
Trong quá trình cố gắng tìm sự liên hệ giữa tư tưởng cốt tuỷ của đạo
Phật với những nguyên tắc đề nghị của Schumacher, tôi đọc được tác phẩm
của Robert Nelson phân tích lịch sử kinh tế dưới góc độ tôn giáo, tôi
càng tin tưởng rằng ngoài lĩnh vực chánh trị, đạo Phật còn có thể cung
cấp những nguyên tắc chỉ đạo kinh tế cho một nước có hoàn cảnh đặc biệt
như Việt Nam. Chúng tôi đã từng nhắc đi nhắc lại nguyên tắc nhập thế,
phục vụ dân tộc dưới ánh sáng của Đạo Pháp áp dụng cho hoàn cảnh Việt
Nam.
Có một điểm tương đồng của chủ nghĩa Marx và Phật giáo mà ít ai chịu nhắc tới, đó là tinh thần phục vụ công ích xã hội,
nhất là cho hạng người cùng khổ. Chủ nghĩa Marx nhắc đến nguyên tắc
một người vì mọi người trong khi Phật giáo nhấn mạnh đến tinh thần ‘lợi
hoà đồng phân’. Tịnh độ của Phật giáo không phải là thiên đàng đợi đến
lúc qua ‘bên kia’ rồi mới thấy. Tịnh độ chính là địa đàng trong ‘cõi
người ta’, là ‘đời thái bình cửa thường bỏ ngõ’, là utopia của một xã hội không còn vong thân, không còn bóc lột.
Người Mác Xít có thể và nên tự hào về lý tưởng phục vụ của Marx. Về
phương diện này Marx đáng được đặt ngang hàng với thánh hiền Đông Tây.
Đây là lý do tại sao các trí thức thế giới trước và sau thế chiến thứ
Hai đã ngưỡng mộ và tôn sùng Marx trong nhiều thập kỷ. Trí thức Tây
Phương như Althusser, Sartre, Bertrand Russell, Herbert Marcuse chỉ kể
ra một ít tên, là những tư tưởng gia khổng lồ chịu ảnh hưởng phương pháp
nghiên cứu và nhân cách của Marx. Nhà thần học Tillich bảo Marx là nhà
‘thần học’ gây ảnh hưởng lớn nhất sau Martin Luther., người đã lập ra
phái Thệ Phản. Giả định siêu hình của Marx, cũng như Khổng và Phật ở
phương Đông, cũng như triết lý của các hiền giả phương Tây, từ Aristote,
Aquinas, Calvin, đến Martin Luther còn là ‘giả định’ . Đó là một loại
triết lý, thần học, siêu hình hay tín ngưỡng có thể áp dụng để sống một
cuộc đời có ý nghĩa. Người Phật tử không có chút mặc cảm nào khi nghĩ
rằng lý tưởng của Marx là một thứ lý tưởng Bồ tát. Còn thực hiện được
hay không là một chuyện khác.
Trong hơn 30 năm nay kể từ khi Schumacher xuất bản tác phẩm Small Is Beautiful
(1977) Phật giáo đã được trí thức Tây Phương tiếp nhận niềm nở. Khi
được hỏi lý do, các Phật tử Tây Phương tuyên bố hai lý do chính khiến họ
bị hấp lực0 của Phật giáo là Hòa bình (thân, tâm và thế giới) và thuyết duyên khởi
rất thân cận với phát hiện khoa học mới. Ngược lại, Phật giáo tại các
nước Á Châu phần lớn vẫn còn dẫm chân trên các lối mòn xưa cũ với những
lễ nghi mê tín. Ngoài Đức Đạt Lai Lạt Ma với hàng ngũ tăng đoàn thu
tiếp được ngôn ngữ và giáo dục Tây Phương, đã làm Phật giáo Tây Tạng
được nhiều người Tây Phương theo hành trì. Ngoài ra còn có hai Bồ Tát
đang cố gắng ‘hiện đại hóa’ và ‘nhập thế hóa’ Phật giáo trong thời đại
tin học và toàn cầu hóa, là Đức Đạt Lai Lạt Ma và Sulak Sivaraksa của
Thái Lan.
Lực lượng Phật tử chuyển pháp ở các nước Tây Phương phần lớn do các
học giả và cư sĩ dẫn đạo. Chánh pháp được giải thích một cách thích hợp
với tinh thần duy lý từ thế kỷ ánh sáng và những vấn đề do hậu quả của
cơn sóng thần kinh tế toàn cầu gây ra. Cuộc cách mạng giáo lý mà Thái
Hư Đại Sư kêu gọi từ đầu thế kỷ 20 đang được Phật Tử Tây Phương thực
hiện. Đạo Phật không phải là một tôn giáo địa phương, Phật không có
đông tây nam bắc, và nếu bóc trần các lớp vỏ văn hoá bên ngoài, phần
cốt lõi còn lại có thể áp dụng như một đạo lý toàn cầu. Phật giáo có phần tôn giáo nghi lễ nhưng phần chính, theo ý tôi, là tuệ giác.
Nhờ tuệ giác chúng ta mới thấy được sự thật ‘tự thân0’ như chính là
nó. Có tuệ giác chúng ta sẽ có chánh kiến và trong lĩnh vực kinh tế,
chánh mệnh. Không ai không muốn có của cải đầy nhà, nhưng đó không phải
là mục đích tối hậu của đời người. Đạo Phật chỉ cho chúng ta con đường
giác ngộ, cởi bỏ những ràng buộc, sống giản dị, an lạc thân tâm, hòa
hợp với người khác trong một thế giới hoà bình.
Quán Như và Stephen Batchelor trong ngày phát hành Confession of a Buddhist Atheist
Sự ưu thắng của chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường không phải là
con đường phát triển hoà bình. Sự va chạm chính trị và văn hoá, các
cuộc khủng bố và chiến tranh do các thành phần tôn giáo cực đoan làm
nổi bật đóng góp có thể được của Phật Giáo cho một kinh tế giản dị và
hòa bình. Thay vì quanh quẩn trong các đường mòn lễ nghi mê tín, Phật
tử phải có quyết tâm ‘cách mạng giáo lý’, khiến Phật giáo mang nhiều
yếu tố tuệ giác hơn tín ngưỡng, để có thể sản xuất những ‘Bồ Tát kinh
tế’ và những ‘Anh Quân chánh trị’, mà một hành giả người Anh, Stephen
Batchelor gọi là Buddhism Without Beliefs.
Không phải vì tư tưởng Phật giáo ‘có sẵn đó’ mà Schumacher mới hứng
khởi hình thành mô thức kinh tế Phật giáo. Không phải sự tình cờ mà
Schumacher viết Small is Beautiful, bởi 30 năm trước đây ông đã thấy trước là không thể nào tránh được một thế giới bạo động trong một xã hội ca ngợi Tham lam là tốt.
Nếu muốn có một kinh tế hoà bình cần phải áp dụng Bát Chánh Đạo, Chánh
Mệnh, để điều hướng phát triển kinh tế, một kinh tế thị trường có bộ
mặt nhân bàn, một kinh tế trong đó con người được đối xử tử tế hơn (people mattered)
Sách tham khảo
Anderson, Sarah & Cavanagh, John. Global Economy. The New Press, New York, 2005.
Batchelor, Stephen. Buddhism Without Beliefs. Bloomsbury, UK, 1998.
Hertz, Noreena. The Silent Takeover. Global Capitalism and the Death of Democracy. William Heinneman, London, 2001.
Leggett, Jeremy. Half Gone. Portobello, London, 2005.
Quan Nhu. Phật giáo Trong Thế Kỷ Mới (Chương 13). Giao Diem, California, 1996.
Schumacher. E.F. Small is Beautiful. A Study of Economics As If People Mattered. Randon House, Sydney, Australia, 1993.
The World Bank. 2005 Little Data Book.
J.K. Galbraith. The Affluent Society. Penguin Books, Victoria, Australia, 1958.