Sách dày
664 trang với 959 ảnh và 505 hình vẽ minh họa, được xem là một công
trình tổng thể lần đầu tiên viết về văn minh vật chất người Việt.Chính
vì những điều đặc biệt thú vị từ cuốn sách này mà nhà văn Nguyên Ngọc đã
viết: “Hình như trong các nghệ sĩ thuộc các ngành văn học và nghệ thuật
ở ta, chính các họa sĩ, dù họ thường rất hiện đại, đi đầu trong hiện
đại, lại cũng thường Việt hơn cả. Họ gần với Đất và với Việt hơn chúng
ta. Và theo tôi, Phan Cẩm Thượng là một trong những người đứng ở hàng
đầu trong số đó”...
Họa sĩ Phan Cẩm Thượng
* Thưa
ông, cuốn sách bắt đầu từ một ngày của người Việt (một ngày của ông
vua, ông đồ Nho, anh nông dân, anh thợ thủ công, anh lái buôn (sĩ nông
công thương), anh công chức hiện tại…). Vì sao ông nảy sinh cách khảo
sát người Việt trên “lát cắt” một ngày?
-
Nên hiểu một ngày ở đây là tượng trưng cho thói quen sinh hoạt của con
người. Đi ngủ, thức dậy, ăn uống, đi làm... ai cũng vậy. Khảo sát một
ngày tức là khảo sát đời sống của một lớp người.
Sinh
hoạt ngày thường của con người thường không được để ý trong các nghiên
cứu. Khi nghiên cứu đời sống vật chất, thông qua các đồ dùng và công cụ
lao động, một vấn đề nảy sinh là người ta đã sử dụng nó như thế nào. Do
đó tôi bắt đầu cuốn sách từ một ngày của những con người cụ thể, một ông
vua, ông quan, anh nông dân, lái buôn, thợ thủ công... xem họ ăn ở, làm
việc, sử dụng vật chất như thế nào.
* Trong
quá trình khảo sát đó ông nhận thấy “một ngày của người Việt”, chẳng
hạn đối với một nông dân, hiện nay có điểm gì khác biệt, đáng nói so với
ngày xưa?
-
Đây là vấn đề mấu chốt. Từ khoảng những năm 1970, cơ cấu sản xuất nông
nghiệp bắt đầu thay đổi trông thấy. Nhiều đồ nghề nhà nông được thay thế
bằng các dụng cụ mới và cơ giới hóa. Cái này phát triển mạnh hơn khi
kinh tế thị trường bắt đầu và nhanh chóng mọi công cụ cổ truyền bị vứt
bỏ, nhiều làng không còn một con trâu nào. Tôi viết cuốn sách này cũng
nhằm giới thiệu lại cho lớp trẻ một đời sống cổ từng tồn tại hàng ngàn
năm cho đến cuối thế kỷ 20.
* Trong
sách ông viết người ta đang mải mê chạy theo việc kiếm tiền, tiêu tiền
và vật chất ta sử dụng không còn có ý nghĩa văn minh nữa. “Vì sao đến
nông nỗi này?”, ông tự hỏi. Vậy ông đã tìm được câu trả lời chưa khi
hoàn tất quyển sách?
-
Trong thời nông nghiệp phong kiến, người nông dân sống gần như toàn tự
cung tự cấp, mọi vật dụng, nông cụ về kích thước, hình dáng đều được đúc
kết tới mức chuẩn mực để thuận tiện sử dụng vào lao động. Những đồ vật
cao cấp hơn như đồ thờ, tranh tượng thờ thì do những thợ thủ công khéo
tay làm và cũng được đúc kết lâu đời về mẫu mã.
Tất
cả những cái đó rất ít ý nghĩa thương mại mà mang nhiều ý nghĩa thực
tiễn và tinh thần sinh ra từ trực tiếp đời sống, thậm chí được nâng lên
mức triết lý. Đồ vật được lưu giữ trong gia đình như là vật kỷ niệm, và
trên thực tế chúng có một hình dáng thẩm mỹ nhất định. Đó chính là đồ
vật của một xã hội chuộng văn hóa, tìm đến những chuẩn mực sống.
Ví
dụ bàn ghế xưa luôn ngay ngắn cứng nhắc, khiến người ngồi phải nghiêm
trang, đúng mực; quần áo xưa luôn chú ý che kín cơ thể sao cho nói lên
đức hạnh của con người. Cái nồi đất nung tuy không đẹp nhưng có hình
dáng, thể tích rất phù hợp với việc gánh nước, đựng nước, ủ rá..., thể
tích của nó tương đương với bụng bà bầu - đó chính là thể tích một người
có thể bê, gánh.
Xã
hội công nghiệp, đồ vật được sản xuất hàng loạt, mất đi tính chất chế
tác thủ công, đương nhiên giá trị kỷ niệm lưu giữ không còn. Dùng hỏng
vứt đi mua cái khác. Và phần lớn đồ dùng ngày nay chúng ta nhập từ nước
ngoài, tiện lợi, giá rẻ, nhưng không có đặc tính dân tộc nào. Quá trình
này là chung nhất cho cả thế giới khi bước vào thời đại công nghiệp. Các
thiết kế đẹp chỉ được lưu giữ vài mẫu mã, tiêu bản.
Ý
nghĩa của đồ dùng ngày nay để trở thành một thứ văn minh vật chất khác
hẳn với thời đại tiền công nghiệp. Điều này phụ thuộc vào sự lựa chọn
của chúng ta - người tiêu dùng - có một thái độ văn hóa thế nào đối với
nhà cửa và đồ đạc của gia đình mình. Ở nước ta hiện nay thị hiếu trọc
phú đang phát triển, đồ ta dùng xa xỉ, tốn kém và ít ý nghĩa văn minh
nhất đối với túi tiền chân chính của chúng ta.
* Vậy với nền văn minh vật chất nông thôn đang thụ hưởng hiện nay, ông nói gì về văn minh tinh thần của chúng ta?
-
Đồ vật do con người làm ra và sử dụng đương nhiên nói lên ý nghĩa tinh
thần của chúng và chủ nhân chúng. Người nông dân đan cái rá, cái rổ, đẽo
cái cày... không chỉ để sử dụng mà còn để biểu cảm tài khéo của mình
vào đó. Những đồ vật đó được truyền thừa về hình dáng, được tiêu chuẩn
hóa từ tổ tiên, và khi làm ra chúng, người nông dân lặp lại hành vi, coi
như giao tiếp với tổ tiên.
Ngày
nay, người ta dùng con dao Thái, mua cái rổ sắt, cái rá nhựa, cày bằng
máy, gặt đập cũng bằng máy... đương nhiên năng suất và đỡ vất vả hơn,
nhưng đồng thời họ tiếp xúc ít hơn với đất đai, cây cỏ và đồ vật, họ
không còn hiểu đất đai, cây cỏ, động vật, đồ vật như người xưa nữa. Đồ
vật công nghiệp thì rất ít ý nghĩa tinh thần, ngay đắt như một cái tivi,
máy tính dùng hỏng cũng phải vứt đi, chứ không có đoạn rổ rá cạp lại
như trước.
Có
thể nói nông nghiệp bây giờ dần trở thành một phần của công nghiệp (tất
nhiên), nông dân nhiều nước được gọi là công nhân nông nghiệp. Trong
quá trình này đời sống tinh thần của người nông dân nghèo nàn hẳn đi,
nhất là ở nước ta, khi người nông dân không biết chắc mảnh đất mình đang
cày bao giờ bị bán cho một doanh nghiệp.
* Nhà văn Nguyên Ngọc có viết đây là cuốn sách nói lên “ngôn ngữ của đồ vật”, nhưng chắc không chỉ như thế?
-
Mỗi đồ vật đều nói lên nền sản xuất ra chúng, con người sử dụng chúng,
nhất là các dụng cụ nông nghiệp được hoàn thiện trong hàng ngàn năm, như
cái cày chẳng hạn. Tôi tìm thấy hàng trăm loại cày khác nhau trong tiến
trình phát triển theo đất đai và cách thức canh tác, theo chế tác của
từng dân tộc, cái đó tự nó đã hình thành một cách đọc đồ vật, nên nhà
văn Nguyên Ngọc gọi là ngôn ngữ của đồ vật. Cái cày thời Đông Sơn hoàn
toàn khác với cái cày thời Lý, và cái cày thế kỷ 19 cũng khác, điều đó
cho thấy sự thay đổi rất nhiều về thổ nhưỡng, cư dân, thủy lợi.
* Như
thường lệ, những trang viết của ông mô tả đời sống văn hóa với cái nhìn
cá nhân nghệ sĩ, nhiều khi gây “khó chịu” cho nhiều người. Chẳng hạn có
người bảo ông ở chùa nhưng lại hay “xách mé” nhà chùa, ông nghĩ sao?
-
Tôi không coi mình là nhất, nhưng thấy điều gì không phải thì nói ngay,
không kiêng nể gì cả. Tôi nghĩ ai hiểu thì sẽ thông cảm thôi, chứ không
có tâm địa gì. Ví dụ nhà sư tân trang chùa làm mất vốn cổ thì phải góp ý
chứ.
Trần Nhã Thụy thực hiện (Nguồn TTCT)