Làng
tôi có ba cái giếng: giếng đầu làng, giếng giữa làng và giếng cuối
làng. Giếng đầu làng và cuối làng hình tròn còn cái giếng giữa làng hình
bán nguyệt. Cái giếng đầu làng gọi là giếng chùa vì nó ở trước cửa
chùa. Giếng giữa làng gọi là giếng đình vì ở trước cửa đình và được coi
như gương trời. Còn cái giếng cuối làng gọi là giếng đồng có lẽ vì nó
nằm trong một thửa ruộng bên cạnh con đường chạy ra nghĩa địa.
Cái
giếng này khác giếng chùa và giếng đình vì thành giếng đắp bằng đất chứ
không xây gạch. Những người ở thế hệ tôi chắc không ai quên câu chuyện
đầy huyền bí về cái giếng đồng. Cứ vào một trong những ngày đầu tháng,
nước giếng lại đổi màu đỏ ối. Người làng tôi thường kể lại cho con cháu
họ nghe một sự tích đau buồn về việc nước giếng đổi màu. Chuyện kể rằng:
có một trinh nữ bị cưỡng bức đã đâm đầu xuống giếng tự vẫn. Hàng tháng,
trong một vài ngày nước giếng tự chuyển sang màu đỏ. Từ đó, có lúc
người làng tôi gọi giếng đồng là giếng trinh nữ.
|
Ảnh minh họa |
Khi
lên mười, tôi đã từng chứng kiến ngày nước giếng đồng đổi màu. Đó là
một buổi trưa mùa hạ, lũ trẻ chúng tôi đi bắt cua, khát nước quá và mò
đến giếng đồng để uống nước. Khi đến bên bờ giếng, lũ trẻ kinh hãi thấy
nước giếng đỏ như máu. Một đứa trẻ nói chúng tôi không được uống nước
giếng đầu tháng. Nếu ai uống nước giếng những ngày đổi màu sẽ mắc bệnh
hủi mà chết.
Sau này, một tiến sỹ khoa học là người làng tôi
giải thích hiện tượng nước đổi màu là do sự thay đổi thời tiết tác động
đến một số chất nào đó có trong nguồn nước ở giếng đồng. Nhưng tôi vẫn
không muốn lời giải thích ấy cho dù đó có thể là sự thật. Tôi bị ám ảnh
mãi mãi bởi câu chuyện về trinh nữ kia. Câu chuyện ấy mang cho ta một
đời sống khác và nó làm nên những kỳ ảo và huyền bí của đời sống những
làng quê hàng ngàn năm nay. Bây giờ chiếc giếng vẫn còn nhưng nó không
còn đổi màu nữa vì lúc nào nước giếng cũng đỏ quạch và nhiều váng.
Nguyên nhân là do bờ giếng bị xói lở. Vì thế nước ruộng tràn vào đầy
giếng. Môi trường của những hồ nước, những con sông đã và đang bị phá
hoại giống như sông Thị Vải. Con sông Đáy chảy qua làng tôi trước kia
mênh mông, kỳ vĩ mà bây giờ trôi lờ đờ như một lạch ước nhỏ và đầy rác
thải.
Có những năm, người làng tôi thấy cá chết trôi kín một
khúc sông dài vì nhiễm độc. Những vẻ đẹp huyền ảo và kỳ vĩ của những
dòng sông, những hồ nước, những cái giếng... đang rời bỏ chúng ta ra đi.
Chúng ta đang đánh mất hay nói đúng hơn chúng ta đang giết chết những
vẻ đẹp kỳ lạ ấy mà quá nhiều người không hề nhận ra.
Cách làng
tôi hai cánh đồng là làng Vĩnh. Ở đó có một câu chuyện rất buồn về cái
giếng làng. Suốt một thời gian dài có thể đến cả vài trăm năm, hầu hết
những người làng Vĩnh đều mắc bệnh toét mắt. Bà nội tôi bảo rằng những
người làng Vĩnh bị trừng phạt bởi lòng hẹp hòi của họ.
Một ngày,
có một người đàn ông lạ rách rưới, đói khát và bị bệnh đau mắt xuất
hiện ở làng Vĩnh. Ông ta đi từng nhà xin ăn. Nhưng người làng Vĩnh đã
xua đuổi ông bởi có lẽ những năm tháng đó họ cũng sống trong đói khát.
Cuối cùng, ông nói với họ rằng nếu họ không cho ông ăn thì xin cho ông
xuống giếng để uống nước vì ông khát quá. Người làng Vĩnh đã đuổi ông ra
khỏi làng và không cho ông uống nước. Ông già ngửa mặt lên trời và
nguyền : " Ta nguyền cho các ngươi sẽ không bao giờ mở được hết mắt
mình". Nguyền xong, ông già cạy dử mắt ném xuống giếng làng và bỏ đi.
Chỉ trong nháy mắt, không ai biết ông đã đi về hướng nào.
Cũng
từ năm đó, người làng Vĩnh bị bệnh toét mắt. Mắt họ lúc nào cũng như
dính chặt bởi dử mắt. Bởi cả làng Vĩnh chỉ có một cái giếng, vì vậy
nguồn nước cho sinh hoạt là nước từ cái giếng giữa làng. Có lẽ do nguồn
nước ô nhiễm mà những ai rửa mặt bằng nước giếng đều có thể bị bệnh toét
mắt.
Nhưng rồi một ngày có một người khách xa đến chơi bạn nghe
được câu chuyện của gia chủ về bệnh toét mắt của người làng bèn mách
cách "giải lời nguyền" chữa bệnh. Theo hướng dẫn của vị khách đó, người
làng Vĩnh nạo vét giếng, bỏ vôi bột xuống đáy giếng, dọn dẹp sạch sẽ
quanh bờ giếng và lập đàn tế lễ dâng cơm trắng, muối và nước. Sau đó, kỳ
lạ thay, người làng Vĩnh hết bệnh toét mắt.
Bên mỗi cái giếng
là những câu chuyện kỳ ảo. Tuổi thơ tôi đã ngày ngày uống nước từ những
cái giếng làng và uống vào tâm hồn mình những câu chuyện. Trước kia,
làng nào cũng có giếng. Bởi giếng là nguồn nước sinh hoạt duy nhất cho
cả làng. Hơn nữa, mỗi cái giếng làng đều liên quan đến phong thủy của
làng. Có một thời người làng tôi không ai được phép bước chân xuống
giếng đình cho dù ở đó có chiếc cầu đá nhiều bậc lên xuống. Vì giếng
đình được xây không phải để lấy nước mà để trấn phong thủy như một chiếc
gương trời.
Giếng đình là cái giếng để thờ. Người làng tôi
thường thả sen trong chiếc giếng bán nguyệt ấy. Mẹ tôi kể những người
làng có tội chửa hoang, tội ăn cắp, tội bất hiếu không được phép soi mặt
xuống nước giếng đình.. Nước giếng đình chỉ dùng cho những việc trọng
đại như cọ rửa đồ thờ trong đình ngày hội làng, dùng nước đồ xôi cúng
Thành Hoàng, tắm rửa cho trẻ con khi chúng đầy tháng tuổi hoặc các cô
trinh nữ một ngày trước khi về nhà chồng thì múc nước giếng đình gội
tóc... Nhưng nếu ai muốn lấy nước giếng đình thì phải dùng gàu kéo nước
lên mà chỉ được lấy nước giếng đình vào giữa đêm.
Còn giếng chùa
và giếng đồng thì để dùng lấy nước sinh hoạt hàng ngày. Cứ mỗi khi tết
đến, có một công việc mà tôi sợ đến co rúm người lại. Đó là việc ghánh
nước giếng để ăn tết. Cuối năm, các bể chứa nước mưa trong các gia đình
đều cạn. Thế là các gia đình phải ghánh nước giếng về ăn tết. Bể nhà tôi
chứa khoảng 100 ghánh nước. Mẹ tôi phân công tôi phải ghánh 50 mươi
ghánh. Tôi đã phải so vai, rụt cô ghánh suốt một ngày mới đủ. Đêm về,
hai vai tôi đau rát và bắp chân mỏi nhức. Thi thoảng một cô thôn nữ thấy
tôi ghánh nước tội nghiệp quá bèn ghánh giúp. Những lúc như thế, tôi
cảm thấy như được Tiên giáng trần giúp và sẵn sàng lấy cô thôn nữ đó làm
vợ nếu cô ấy ghánh cho tôi 50 ghánh nước. Bây giờ thì không ai còn
ghánh nước giếng nữa. Tất cả giếng trong làng đều bị ô nhiễm và chẳng
còn trong ngăn ngắt như thuở xưa.
Trước kia, giếng làng nào cũng
được thả bèo tổ ong hoặc bèo tai chuột để làm cho trong nước. Khi rẽ
những đám bèo tổ ong, bèo tai chuột ra, người ta thấy nước trong ngăn
ngắt như nhìn thấu đáy. Hồi anh tôi còn học cấp II trường làng. Ngôi
trường này được xây dựng trên nền của ngôi chùa đã bị phá đi để xây
trường học. Giờ ra chơi, học sinh khát nước là chạy ra giếng uống nước.
Một
lần cúi xuống uống nước, anh tôi nhìn thấy một vệt sáng lóng lánh hắt
lên từ đáy giếng. Anh tôi đã bí mật lặn xuống đáy giếng và vớt được một
chiếc dao nhíp sáu lưỡi. Đó là chiếc dao của một lính pháp trong một lần
đi càn qua làng tôi xuống giếng rửa tay đã đánh rơi. Bố tôi đã tặng
chiếc dao nhíp đó cho ông Bảy Bình, một người bạn cùng làng trước khi
ông ấy lên đường vào chiến trường. Ông Bảy Bình đã hoạt động bí mật ở
Đồng Nai 14 năm liền cho tới 30 tháng 4 năm 1975. Sau đó, ông làm Phó
Giám đốc Công an Đồng Nai dưới thời ông Mười Vân làm Giám đốc. Sau khi
ông Mười Vân bị kết án tử hình vì đã nhận vàng của những người tổ chức
vượt biên trái phép, ông Bảy Bình nghỉ hưu về quê và mất sau đó ít năm.
Mươi
năm trước, làng tôi quyết định trùng tu lại những cái giếng. Người làng
tôi trùng tu lại những cái giếng không phải để lấy nước dùng cho các
sinh hoạt. Họ trùng tu lại những cái giếng để dựng lại một trong những
vẻ đẹp và sự linh thiêng đã làm lên hồn cốt làng quê họ.
Bà Bê,
một người làng tôi đang định cư tại Mỹ nghe vậy đã kêu con cháu gửi tiền
về giúp làng trùng tu giếng. Bà Bê rời làng đi Nam từ năm 14 tuổi.
Trước năm 1980, bà sống ở quận Gò Vấp. Sau năm 1975 bà cùng các con sang
Mỹ định cư. Ngày về thăm làng cách đây mấy năm, bà đã đứng trước giếng
chùa khóc mãi. Cái giếng đã chứa đựng biết bao kỷ niệm về cố hương của
bà.
Từ cái giếng kia, không chỉ bà - một kẻ tha phương - mà ngay
chính tôi, kẻ vẫn sống ở làng quê, lúc nào đứng trước những chiếc giếng
lại nghe thấy những cười khóc của những người thân và hình ảnh của đời
sống những năm tháng xưa cũ trở về đầy đủ. Hoặc chỉ được mơ thấy hình
ảnh một con tôm càng xanh từ chân chiếc cầu đá của cái giếng búng nước
bơi trong một buổi trưa ngập nắng và gió của mùa hạ.