Ngay sau tháng Tư năm bảy mươi lăm, đời sống kinh tế rất
khó khăn, chú đã tự tìm cho mình nghề hàn thùng tưới cây từ những tấm
tôn cũ để đáp ứng nhu cầu cung cấp rau xanh trong thành phố; đến khi nhu
cầu thùng tưới cây giảm đi, chú lại đan chiếu, thắt dây lác gia công
làm hàng thủ công mỹ nghệ, rồi chú chuyển qua chạy xe lôi, sau đó là xe
lôi đạp… đó là dấu ấn thành quả lao động sáng tạo của chú, cũng là nỗi
khát khao vượt khó, vươn lên tìm cái ăn cái mặc nuôi vợ và bầy con nhút
nhít năm sáu đứa cho đến lúc trưởng thành.
Chú đã qua tuổi bảy mươi, chiều cao hơn một mét bảy cũng đã khom
thấp xuống theo thời gian. Cuối cùng thì ông trời cũng đã đền bù cho
chú. Qua bao gian truân vất vả, những người con chú lớn dần, cũng biết
bươn chải, lăn xả để tìm miếng cơm manh áo phụ giúp gia đình, đời sống
của chú cũng thư thả hơn.
Từ ngày xe lôi, xe ba gác không còn được lưu hành để đảm bảo an toàn
giao thông và làm đẹp cảnh quan thành phố, chú Bảy buồn lắm; chú thấy
thiếu vắng một cái gì thân thiết trong cuộc sống hằng ngày. Người xưa
bảo “cái nghiệp nó triệt vào thân”, những lối nhỏ thân quen trong vài
chục năm chạy xe đã tạo ra “lối mòn khó quên” trong tâm thức của chú, do
vậy sáng nào chú cùng chiếc xe“đòn giong” – người bạn thân thiết – tìm
lại một thời vui buồn gian khổ, mặc dù chú đã quá quen những cảnh vật
trên con đường này. Điểm thân quen chú thường ghé ngồi chơi trước khi
về nhà là tiệm sửa xe của chú Ba, người bạn đồng hành chạy xe lôi cả
chục năm với nhau và cũng là người bạn thân thiết trong cuộc đời chú.
Sau khi bị tai nạn giao thông gãy chân, chú Ba không thể chạy xe được
nữa, đem số tiền chắt chiu, dành dụm mua dụng cụ mở tiệm sửa xe đầu
hẻm, mong kiếm ít tiền tiếp vợ con chợ búa hàng ngày.
Sáng nào cũng vậy, trừ những ngày mưa bão, sau một vòng theo thói
quen chú Bảy lại dừng xe dành mươi phút ngồi bên chú Ba tâm sự thế
thái nhân tình, chuyện con cái, cháu chắt.
Hôm đó xe tôi hư, ghé nhờ chú Ba sửa. Trong khi ngồi chờ, tôi cũng
vui lây tình cảm của hai ông bạn già: “Con thấy hai chú thân mật với
nhau quá, khiến nhiều người ganh tỵ. Có tiền bạc cũng chưa không kiếm
được tình bạn như hai chú”.
Chú Ba nói: “Ờ, tụi tui chơi với nhau nhiều năm rồi. Cùng chung chạy
xe, đem mồ hôi đổi lấy bát cơm, nên hiểu nhau hơn ai hết. Vắng một
vài hôm là lo lắng cho nhau sợ có đau ốm gì không? Tôi với ổng hình với
bóng, tuy nghèo mà vui cô ạ!”.
Cảm động trước hình ảnh hai người bạn già, tôi đã chụp lại mấy kiểu
ảnh để tặng các chú làm kỷ niệm. Chú Bảy rất mừng, thấy có đám bông
giấy nở rộ trên tiểu đảo giữa đường, chú bảo tôi ra đó chụp cho chú một
“pô” với hoa. Khi tôi đưa tay sửa lại áo khoác của chú “sộc sệch” và
nói: “chú bỏ mũ ra, cháu chụp cho rõ mặt”. Chú cười thật tươi, ôn tồn
trả lời: “Con cứ chụp đi, chú thích mặc chiếc áo khoác và đội chiếc mũ
này, đó là những vật thân thương của chú”.
Mải công việc, gần cả tháng sau tôi mới rửa ảnh và mang lại nhà cho
chú Bảy, chú vui lắm đi khoe khắp xóm, tất nhiên là có khoe với cả chú
Ba nữa. Xem hình xong hai ông lão đều cười thật rạng rỡ.
Người ta thường nói “Người già như chuối chín cây” thật đúng vậy.
Mới dăm bữa sau ngày tôi đưa hình tặng, chú Bảy đã ra đi do bị bệnh bất
ngờ. Tôi đến viếng và không ngờ lần chụp ảnh đó là lần cuối cùng của
chú và một trong những chiếc ảnh đó được gia đình chọn rửa lớn ra làm
ảnh thờ.
Thím Bảy tâm sự với tôi: “Mấy tấm ảnh con chụp ổng lúc còn sống ổng
thích lắm, khen con có tay nghề chụp đẹp, thím lấy ảnh đó làm ảnh thờ”.
Vậy là tôi đã giúp chú giữ lại cho vợ con chú hình ảnh với nụ cười thanh
thản.
Mấy hôm sau, trên đường đi làm tôi ghé cho chú Ba hay chú Bảy đã mất,
chú Ba kêu sảng sốt: “Trời ơi! sao lẹ vậy, thảo nào mấy bữa nay tao
trông mãi mà không thấy ổng ghé như mọi khi! Tội nghiệp ổng quá bây
ơi!”. Khuôn mặt chú trầm xuống, hai dòng nước mắt chảy trên khuôn mặt
sạm đen vì dầu dãi nắng mưa.
Chiều nay bên ngôi mộ mới, có một ông lão loay hoay che gió mưa đốt
nén nhang thơm chia tay người bạn già dưới cơn mưa. Trong nước mưa rơi
trên mộ có cả nước mắt của người bạn thâm giao.