Chúng
ta đều biết đến ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới là Borobudur ở
Inđônêxia được khám phá trong vùng rừng rậm của đảo Java vào đầu thế kỷ
XIX và ngày nay đã hồi sinh để trở thành một nơi chiêm
bái và một thắng cảnh du lịch trong lòng một quốc gia Hồi giáo. Tuy
nhiên có lẽ ít ai biết về di sản tuyệt vời khác của Phật giáo là Ajanta
cũng đã được khám phá một cách thật tình cờ vào đầu thế kỷ XIX để ngày
nay trở thành một nơi hành hương tại Ấn độ, nơi mà Phật giáo đã phát
sinh và đã từng biến mất.
Bài
viết ngắn dưới đây sẽ tường thuật lại sự khám phá ly kỳ đó và mô tả sơ
lược di tích quý giá này kèm theo một mẫu chuyện để chúng ta cùng suy
tư.
Ngày
28 tháng 4 năm 1819, có một toán quân lính người Anh thuộc đạo quân
viễn chinh ở Ấn độ cưỡi ngựa đi tuần tra dọc theo dãy núi Indhyadri
trong một vùng hẻo lánh phía đông bắc tỉnh Aurangabad, tiểu bang
Maharashtra nơi miền Tây bắc nước Ấn. Đoàn lính tiến dần vào một hẻm núi
thật sâu và hoang dã. Dưới chân họ con suối Waghora chảy xiết, ôm sát
vào chân núi và luồn sâu vào hẻm vực. Đại úy John Smith thuộc đội kỵ mã
thứ 28 của đoàn kỵ binh đóng ở Madras đang lơ đãng nhìn lên sườn núi
dựng đứng thì chợt thấy dường như có những cửa hang
trên vách đá. Khá tò mò vì các cửa hang có vẻ không phải là thiên nhiên
mà do tay người đục khắc, anh chàng sĩ quan này bèn nhảy xuống ngựa và
tìm cách trèo lên vách núi để xem cho biết. Lanh quanh một lúc thì anh
ta tìm được cách trèo lên được vì nơi này có nhiều bậc thang khá hẹp đục
vào vách đá. Sau khi lên đến nơi thì anh ta cũng chỉ quan sát qua loa
cảnh tượng hiện ra trước mắt rồi phải trèo xuống vì các đồng đội còn
đang đứng chờ bên dưới. Tuy nhiên anh chàng John Smith vẫn cố lấy bút
chì ghi tên mình và ngày tháng vào một góc kín đáo trên một trụ đá ở một
cửa hang lớn, và nét bút chì ấy cho đến ngày nay vẫn còn lờ mờ. Sau đó
thì các hang động này lại chìm vào sự yên lặng mênh mông của những ngàn
năm quá khứ. Tuy nhiên câu chuyện
khám phá chớp nhoáng của viên đại úy sau đó thỉnh thoảng cũng vẫn được
đồn đại trong đoàn quân viễn chinh.
Năm
năm sau, vào tháng 2 năm 1824, có một viên trung úy tên là James
Alexander thuộc đạo quân xung kích 16 trong đoàn quân viễn chinh Anh
quốc quyết định xin nghỉ phép vài hôm để đi săn. Anh trung úy trẻ này
rất say mê săn bắn và vẫn thường mong có dịp đi săn trong hẻm vực
Waghora vì anh nghe nói nơi đây có rất nhiều thú nhất là các loài thú
dữ, xứng đáng với biệt danh "thung lũng cọp" mà người ta gán cho nơi
này.
Trước khi lên đường bạn bè trong quân ngũ cảnh giác anh ta là ngoài thú
dữ ra còn có nhiều thứ nguy hiểm khác nữa, nhất là bọn thổ dân Bhil
sinh sống trong các vùng rừng núi thuộc miền trung và tây bắc nước Ấn.
Thổ dân Bhil rất ghét người lạ dám cả gan xâm nhập vào lãnh địa của họ.
Mặc dù đã được cảnh giác nhưng James Alexander chẳng đếm xỉa gì đến
chuyện ấy vì anh ta rất mê săn heo rừng, beo, báo và cọp.
James
Alexander nhờ một người thợ săn địa phương dẫn đường. Vào thời bấy giờ
có nhiều thợ săn chuyên
nghiệp gọi là shikari, rất thiện nghệ và chuyên phục vụ cho những người
giàu có và quý phái tại địa phương hoặc từ Anh Quốc đến và nhất là các
sĩ quan thích săn bắn trong đạo quân viễn chinh. Anh trung úy còn dẫn
theo hai người lính trong nhóm sepoys, tức là đội lính tập tuyển mộ tại
địa phương. Cả bọn trang bị khí giới đủ loại gồm súng ngắn, súng dài,
kiếm, lao, mác... và đoàn đi săn cứ thế mà băng rừng tiến vào hẻm núi
Waghora.
Khi
vừa đến cửa thung lũng nơi có một dòng suối chảy xiết thì bỗng nhiên có
tiếng
huýt sáo vọng lại từ phía vách núi trước mặt. Cả đoàn dừng lại để lắng
nghe động tĩnh, và đúng là có người đang rình rập vì có nhiều tiếng huýt
sáo khác đáp lại từ các bụi rậm và hốc đá chung quanh. Quả đúng là đoàn
đi săn đang bị thổ dân Bhil phục kích. Mặc dầu sợ hãi nhưng cả đoàn tay
cầm khí giới cứ tiến lên , vừa cẩn thận quan sát chung quanh. Bỗng
nhiên nhiều thổ dân Bhil cầm cung tên nhô đầu lên từ các bụi rậm, gốc
cây và hốc đá. Cũng lạ là họ không tỏ vẻ gì tức giận hay đang chuẩn bị
tấn công mà chỉ có vẻ tò mò đưa mắt theo dõi thế mà thôi. Đoàn săn bắn
cũng bớt sợ vì họ biết rằng các mũi tên của thổ dân Bhil đều có tẩm
thuốc độc. Trung úy James Alexander vẫn giữ được bình tĩnh và nhận thấy
người Bhil có
thân hình nhỏ thó, da đen sậm và gần như là trần truồng.
Đoàn
săn bắn tiếp tục ngược theo dòng suối để tiến vào hẻm vực trong khi các
thổ dân Bhil vẫn rình rập phía sau nhưng chỉ quan sát mà không tấn
công. Sau cùng thì đoàn săn bắn cũng tiến được vào giữa hẻm núi, khu này
có hình vòng cung giống như hình móng ngựa, chiều ngang độ vài trăm
mét. Viên trung úy James Alexander vừa canh chừng các thổ dân Bhil vừa
quan sát vách núi trước mặt và bất ngờ anh ta trông thấy khoảng hơn một
chục miệng hang cheo leo trên vách
đá...
Vì
tò mò thúc đẩy, trung úy James Alexander bèn ra lệnh cho cả đoàn tìm
cách trèo lên để xem. Khi lên được đến nơi thì họ mới biết là các hang
đúng là do tay người đục đẽo. Cửa hang hình vòm cung có cột đá chống đỡ
và tất cả các hang đều được đục thẳng từ bên ngoài vào trong vách núi.
Tường và cột đá ở cửa hang được chạm nổi với các hình người, hình thú
vật, hoa, lá.... Một số hang bị đá sụp lấp kín lối vào, nhưng một số
hang khác vẫn còn kẻ hở có thể chui vào được. Vô cùng kinh ngạc trước
quang
cảnh đồ sộ của các cửa hang đang hiện ra trước mặt, James Alexander bèn
quyết định chui vào bên trong xem sao. Cả đoàn tìm cành và cỏ khô bó
lại làm đuốc rồi chui vào một cửa động. Ánh sáng làm cho hàng ngàn con
dơi đang đeo ngược trên trần hoảng sợ bay tán loạn. Trên mặt đất có
nhiều đống phân động vật cho biết là có nhiều thú như khỉ, chó rừng,
cọp, gấu... đến trú ẩn. Đoàn người lại tìm thấy một cầu thang đưa họ lên
các gian phòng ở tầng trên. Tại đây họ thấy có vết tro còn mới và trong
một góc tối có một bộ xương người.
Đoàn
"thám hiểm" lại tiếp tục chui vào các hang động khác. Một số hang có
kích thước nhỏ và không sâu lắm, nhưng có một số hang khác thì thật mênh
mông, trần cao vút như trong một ngôi đền đồ sộ. Trong một hang lớn
dưới ánh đuốc bập bùng hiện ra trước mặt họ một pho tượng Phật to lớn và
oai nghiêm, trên tường trong hang có nhiều bức tranh vẽ rất tinh xảo và
tuyệt đẹp, màu sắc rực rỡ. Cả đoàn như bị mê hoặc trước những khám phá
ngoạn mục, quên bẵng việc săn bắn và quên cả các thổ dân Bhil còn đang
rình rập dưới chân núi. Đến chiều thì họ mới trèo xuống để tìm đường về.
Mặc dù không bắn được một con thú nào nhưng tay săn James Alexander
không hề thất vọng vì anh ta tin chắc là mình đã khám
phá ra một di tích ngoại hạng, một tu viện đồ sộ và tinh xảo đã chìm
vào quên lãng, biến mất trong trong trí nhớ của con người từ lâu...,
ngoại trừ một số thổ dân Bhil là còn biết đến những di tích đó trong sự
thờ ơ. Thật ra thì viên trung úy James Alexander trước khi đi săn cũng
không hề nghĩ đến câu chuyện đồn đại về những hang động do đại úy Smith
kể lại từ năm năm trước, Tuy nhiên John Smith đơn giản là một người tò
mò và chỉ cần biết rằng mình đã trông thấy những hang động trong rừng
sâu thế thôi, trong khi đó thì trung úy James Alexander lại tin chắc là
mình đã khám phá ra một kỳ quan chưa từng có.
Một
thời gian ngắn sau khi tin đồn viên trung úy James Alexander đã khám
phá các hang động trong thung lũng Waghora được lan truyền đi khắp nơi
thì các nhà khảo cổ kéo đến và họ đều xác nhận đấy là một trung tâm Phật
giáo lâu đời và đồ sộ chưa nơi nào sánh kịp. Các nhà khảo cổ bèn mượn
tên của ngôi làng gần nhất là Ajanta để đặt tên cho di tích này. Các
công cuộc thăm dò tiên khởi đều công nhận là các tranh trên tường trong
các hang động rất tiêu biểu cho nghệ thuật tranh vẽ của Ấn độ, và đây là
những bức tranh vừa xưa lại vừa đẹp nhất mà trước đó chưa hề được khám
phá. Năm 1983, Ajanta được cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc xếp vào gia
tài văn hóa của nhân loại.
Ajanta là
một tu viện Phật giáo gồm 29 hang động đục sâu vào vách núi tạo thành
các "ngôi chùa" và "tịnh xá". Vách núi là đá basalt, một loại đá núi lửa
rất cứng. Trong số 29 hang động có ba hang còn bỏ dở dang chưa hoàn
tất. Theo cách bố trí thì các hang được chia làm hai loại : loại thứ
nhất là các hang "chính điện" hay "thiền đường" (chaitya) bên trong cùng
là bệ thờ và nơi bệ thờ có một bảo tháp (stupa). Loại hang thứ hai là
các hang "tịnh xá" (vihara) là nơi nghỉ ngơi và trú
ngụ của tăng đoàn, gồm có một gian tập thể và nhiều phòng nhỏ.
Cách
kiến trúc, tranh vẽ và điêu khắc trong hang cho thấy là Ajanta được
thực hiện vào hai thời kỳ cách nhau khá xa. Thời kỳ thứ nhất kéo dài từ
thế kỷ thứ II trước Tây lịch đến từ thế kỷ thứ I trước Tây lịch và chịu
ảnh hưởng rõ rệt của Phật giáo Nguyên thủy (Therevada). Cách trang trí
trong thời kỳ này khá đơn giản và kém phần hoa mỹ, đặc biệt nhất là
không có một biểu tượng nào tượng trưng cho Đức Phật. Thời kỳ mở mang
thứ hai thuộc vào thế kỷ thứ
V và chịu ảnh hưởng của Phật giáo Bắc tông, thời kỳ xây dựng này tuy
ngắn ngủi nhưng đã thực hiện được nhiều hang động thật đồ sộ, với cách
thiết kế phức tạp hơn, trang trí cũng phong phú và màu mè hơn. Các hang
động Ajanta có thể đã bị bỏ hoang từ thế kỷ thứ VI, tuy nhiên theo một
vài tư liệu khác thì tăng đoàn vẫn còn lưu lại tại Ajanta cho đến thế kỷ
thứ VIII trước khi rời bỏ nơi này.
Nơi trú ngụ của Đức Phật và tăng đoàn
Cho
đến nay người ta không hoặc chưa tìm thấy được một di tích kiến trúc
Phật giáo nào được xây dựng vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế, kể cả
trong các giai đoạn đầu tiên của các tăng đoàn sau khi Vị Thầy của họ đã
tịch diệt. Vào thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế thì chưa có chùa chiền
như ngày nay vì Đức Phật chủ trương một lối sống hoàn toàn tự do không
bị trói buộc vào các sinh hoạt và lo toan thế tục, và cũng không dừng
lại một nơi cố định nào cả. Theo lời giáo huấn của Ngài thi nếu người đã
tu hành mà còn lăn mình vào những mối bận
tâm của thế tục, còn bám víu vào những tiện nghi vật chất và một môi
trường sống cố định để nuôi dưỡng thói quen của mình thì nhất định họ sẽ
không thể nào tu tập được.
Nếu
một người tu hành chưa đủ nghị lực vượt lên trên những trói buộc bên
ngoài thì làm thế nào có đủ khả năng để loại bỏ những xung động bên
trong tâm thức của chính mình. Dựa theo các kinh sách xưa của Nam tông
thì khi Đức Phật còn tại thế chỉ có hai loại "kiến trúc" có mái che hẳn
hoi có thể tạm gọi là "nhà cửa" để giúp cho
người tu hành che thân và tạm trú. Loại thứ nhất gọi là "avasa", tức là
những túp lều do các vị tỳ kheo tự tay cất lấy để tạm trú trên đường
hoằng Pháp hoặc để an cư vào mùa kiết hạ. Các "kiến trúc" này thật ra
chỉ là những chiếc "am" được dựng lên bằng cành lá của cây rừng hoặc
bằng các vật liệu tìm được trong các vùng nông thôn. Các nơi trú ẩn này
chỉ có tính cách tạm thời vì sự sinh hoạt của tăng đoàn rất linh động
không bám vào một nơi cố định nào cả. Loại "kiến trúc" thứ hai gọi là
"arama" hay "vihara" tức là các "tịnh xá" do các người thế tục giàu có
cúng dường và rất có thể họ cũng tiếp tục đứng ra phụ giúp tăng đoàn
trong việc bảo trì bởi vì Đức Phật và tăng đoàn là những người sống bằng
khất thực nên không
có tiền của gì cả. Tịnh xá là các kiến trúc cố định khang trang và có
tính cách lâu bền hơn các "am cỏ" được dựng lên trên đường hoằng Pháp.
Các tịnh xá nổi tiếng nhất được kinh sách ghi chép là vườn Trúc lâm
(Venuvana) gần thành Vương Xá (Rajagrha) và vườn Kỳ Viên (Jetavana) gần
thành Xá Vệ (Sravasti), và dầu sao thì đấy cũng chỉ là những nơi dừng
chân của Đức Phật và tăng đoàn mà thôi. Tuy nhiên Đức Phật thường lưu
lại vườn Kỳ Viên nhiều hơn các nơi khác, nhất là trong hai mươi năm
trước khi Ngài nhập diệt.
Ngoài
các tịnh xá mà kinh sách nói đến thì không có một chứng tích nào khác
cho thấy vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế đã có các kiến trúc đồ sộ do
tăng đoàn hay do người thế tục xây dựng. Tương ưng Bộ kinh (phẩm 10) mô
tả vườn Kỳ Viên có "những giảng đường to lớn, các gian phòng tiện nghi, kho chứa, đường đi lót đá...",
tuy nhiên cho đến nay các nhà khảo cổ đã không tìm thấy một vết tích
nào đáng kể tại vị trí của vườn Kỳ Viên. Các học giả Tây phương cho rằng
cách mô tả trên đây của kinh sách có phần phóng đại.
Các
nơi trú ngụ xưa nhất của những tỳ kheo Phật giáo mà các nhà khảo cổ
khám phá được cho đến nay là các hang động và những hang xưa nhất thì
cũng chỉ được thiết kế bắt đầu từ thế kỷ thứ II trước Tây lịch như
trường hợp của các hang Ajanta trên đây. Cũng có nhiều di tích Phật giáo
xưa hơn, thuộc thế kỷ thứ III trước Tây lịch tức là dưới triều đại của
hoàng đế A-dục, đó là các mặt đá và trụ đá ghi khắc chỉ dụ của hoàng
triều và nhất là các bảo tháp do chính hoàng đế A-dục ra lệnh xây dựng
khắp nơi trên đất Ấn. Tuy nhiên đấy chỉ là những di tích và những kiến
trúc thiêng liêng chứ không phải là tu viện hay chỗ ở của tăng đoàn. Các
học giả Tây
phương nghĩ rằng các tịnh xá (arama) nói chung chỉ là những gian nhà
rộng nhưng rất đơn sơ, sườn bằng tre, lợp lá và vách đất, giống như nhà
cửa ở nông thôn Ấn độ ngày nay. Các giảng đường hay các tịnh xá lớn
chẳng hạn như vườn Kỳ Viên hay Trúc Lâm thì làm bằng cây và gỗ và các
kiến trúc bằng "vật liệu nhẹ" và như thế thì không thể nào tồn tại được
với thời gian.
Sự hình thành của "Chùa chiền"
Mặc
dầu Ajanta được thành lập sau khi Đức Phật đã tịch diệt hơn ba thế kỷ
nhưng cũng giúp cho chúng ta một vài ý niệm nào đó để hình dung ra sự
sinh hoạt của tăng đoàn vào những thời kỳ xa xưa nhất của Phật giáo.
Ajanta là các hang động đục thẳng vào núi đá và sau đó thì bị bỏ quên
trong rừng sâu nên vẫn còn giữ được khá nguyên vẹn sau hơn hai ngàn hai
trăm năm, quả thật là một di tích vô cùng quý giá. Thật vậy trong suốt
thế kỷ XIX các nhà khảo cổ đã khám phá ra rất nhiều di tích Phật giáo
rải rác khắp nơi ở Ấn độ, nhưng cho đến nay thì vẫn chưa có một di tích
nào cùng loại lại
đồ sộ, tinh xảo và lâu đời hơn Ajanta. Trong số này có thể kể ra các
hang Bedsa gần thành phố Pune, các hang Bhaja và Kharla gần thành phố
Lonavala thuộc tiểu bang Maharashtra nằm trên bờ biển phía tây của nước
Ấn, (xem hình phụ lục 1).
Nói
chung thì các loại hang động đục thẳng vào vách núi như trên đây cũng
gián tiếp giúp hình dung ra "chùa chiền" và các nơi trú ngụ xưa nhất của
Đức Phật và các đệ tử của Ngài. Các chuyên gia khảo cổ đã căn cứ vào
các chứng tích trong các hang động để hình dung lại "chùa chiền" và
"tịnh
xá" xây dựng bằng gỗ vào những thời kỳ đầu tiên sau khi Đức Phật tịch
diệt, vì theo họ thì hang động được đục dựa vào khuôn mẫu của các kiến
trúc ngoài trời, và các kiến trúc này thì tất nhiên phải được xây dựng
và thiết kế theo truyền thống đã có từ lâu đời. Thật vậy các hang động
Ajanta tuy được đục thẳng vào núi đá nhưng đã kiến tạo lại từng chi tiết
một và rập khuôn theo cách kiến trúc bằng gỗ. Người ta nhận thấy trên
trần của các gian phòng trong hang có những kèo cột tượng trưng cho xà
nhà, hai đầu của các kèo cột lại còn đục thêm dấu vết của các đầu đinh.
Vách hai bên cửa hang và bên trong hang được trang trí bằng các cửa sổ
giả, gác giả và bậc thềm giả đục tượng trưng trên mặt đá. Dựa vào các
chi tiết này
người ta có thể hình dung ra kiến trúc của "chùa chiền" vào thời bấy
giờ. Tuy nhiên cho đến nay chưa thấy ai có sáng kiến sử dụng cây và gỗ
để xây dựng lại ngoài trời các "ngôi chùa cổ xưa" của Phật giáo dựa vào
các chi tiết tìm thấy trong hang động.
Cửa
hang các tịnh xá có mái hiên hình vòm và cột chống đỡ. Bước vào bên
trong là một gian tập thể hình vuông hay chữ nhật dùng làm nơi sinh hoạt
chung. Ba mặt vách của gian tập thể thì được đục thêm các "phòng" hay
đúng hơn là các "hốc" nhỏ kích thước bằng nhau, dùng làm
nơi nghỉ ngơi cho các tỳ kheo. Trong mỗi hốc có hai bệ đá làm giường.
Cách thiết kế tổng quát của các tịnh xá cũng không có gì thay đổi nhiều
giữa hai thời kỳ phát triển, tuy nhiên các tịnh xá Bắc tông rộng lớn
hơn, một số có nhiều tầng và cầu thang thông nhau, đôi khi trong tịnh xá
lại còn có thêm một gian dành riêng làm thiền đường và nơi thờ phụng.
Các
chính điện (chaitya) tại Ajanta cũng được thiết kế theo cùng một khuôn
mẫu như nhau. Chính điện lớn nhất được các nhà khảo cổ đặt tên là hang
số 10, thuộc thời
kỳ Phật giáo Nguyên thủy, tuy được đục sâu vào vách núi nhưng các hang
này lại rập khuôn theo cách kiến trúc bằng gỗ ở ngoài trời. Phần trong
cùng của chính điện là bệ thờ có hình bán nguyệt, trần là một vòm cao
với các "kèo" hình vòng cung được tạc vào đá nhưng trông giống như làm
bằng gỗ, hai đầu kèo chống lên các trụ đá dựng đứng. Vào thời Đức Phật
còn tại thế thì chưa có các "chính điện" xây dựng bên cạnh các tịnh xá
như trường hợp trên đây vì các tịnh xá thời bấy giờ nhất thiết chỉ là
những nơi tạm trú cho tăng đoàn mà thôi. Tuy nhiên theo các học giả Tây
phương thì chính điện xuất hiện rất sớm sau khi Đức Phật tịch diệt và
được dựng lên bên cạnh các tịnh xá để làm nơi thiền định và đón tiếp
người thế tục. Do
đó vai trò của tịnh xá cũng biến đổi đi, không còn là nơi tạm trú vào
dịp kiết hạ trong mùa mưa bão nữa, sự sinh hoạt của tăng đoàn do đó cũng
trở nên cố định hơn.
Trong
mỗi chính điện nơi vị trí của bệ thờ đều có một bảo tháp xá lợi. Các
bảo tháp này có lẽ đã xuất hiện vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch khi
hoàng đế A-dục quyết định phân tán và đưa xá lợi đến gần hơn với mọi
người trên khắp vùng đế quốc của ông. Kinh sách cho biết là hoàng đế
A-dục xây dựng được tất cả 84 000 bảo tháp
và bên cạnh mỗi bảo tháp lại còn xây thêm một tu viện và mỗi tu viện
phải phụ trách nghiên cứu một chủ đề riêng biệt trong kinh sách. Theo
các học giả Tây phương thì con số 84 000 là một con số tượng trưng với
ít nhiều phóng đại, nhưng dù cho con số này chỉ có tính cách tượng trưng
đi nữa thì cũng phải công nhận là bảo tháp và tu viện hay "chùa chiền"
dưới triều đại hoàng đế A-dục cũng thật là nhiều. Bảo tháp được xây dựng
khắp nơi có mục đích thay thế cho sự hiện diện của Đấng Thế Tôn. Các vị
tỳ kheo dựng lên các chính điện với bảo tháp xá lợi bên trong vừa để
thờ phụng vừa để cảm thấy Vị Thầy của mình lúc nào cũng ở bên cạnh mình,
đồng thời chính điện cũng được dùng làm nơi để người thế tục đến chiêm
bái.
Chùa chiền như ngày nay có lẽ cũng đã bắt nguồn từ đấy.
Phụ lục 1: Hình ảnh các hang Ajanta, Bedsa, Bhaja và Kharla
Karla caves
Bhaja caves
Bedsa Caves 1000 years old.
Ajanta
Ajanta Caves
Water Falls, Ajanta Caves
Reclining Buddha carved in the Ajanta Caves in Northern India,
dating to the 2nd century B.C
Tranh vẽ trong Ajanta Caves
Temptation of Mara, painting of mural in Cave 1, Ajanta,
1875-1876, Museum no. IS.13-1885
Ajanta Bodhisattva