Theo các biên
niên sử Tích Lan, khoảng 200 năm sau Phật diệt độ, vua A-dục (Aśoka) gởi một
đoàn truyền giáo do ngài Mahinda, con vua A-dục hướng dẫn, đến Sri Lanka. Đoàn
truyền giáo được vua Devānaỵpiya-tissa và người dân Sri Lanka trân trọng đón tiếp. Sau
đó, đức vua quy y và phát nguyện hộ trì Tam bảo. Ông xây tu viện Mahāvihāra
dâng cúng cho Trưởng lão Mahinda và đoàn truyền giáo. Từ đó, tu viện Mahāvihāra
trở thành trung tâm hoằng pháp của Phật giáo. Và Phật giáo nhanh chóng trở
thành quốc giáo tại Sri
Lanka. Phật giáo lúc bấy giờ, theo góc nhìn
lịch sử phân phái, là Phật giáo thuộc truyền thống Theravāda. Truyền thống này
chọn ngôn ngữ Pāli là ngôn ngữ chính để tụng đọc và biên chép kinh điển. Đến
cuối thế kỷ thứ I trước Tây lịch, Phật giáo Theravāda lại bị phân ra thành hai phái:
Mahāvihāra (Đại tự viện) và Abhayagiri (Vô úy sơn). Và vào thế kỷ thứ IV TL, Từ
bộ phái Vô úy sơn phân ra thêm một bộ phái. Người sáng lập của phái này ở tu
viện Jetavana (Kỳ viên), nên phái này cũng gọi là phái Kỳ viên (Jetavana). Phái
Vô úy sơn, sau này, trong quan điểm của những người theo Đại thừa tại Ấn Độ,
được xem là trung tâm hoằng pháp của Đại thừa tại Sri Lanka. Và phái Kỳ viên ảnh
hưởng tư tưởng Đại thừa và thừa nhận kinh điển Đại thừa.
Phật giáo
Theravāda bị phân phái vào những năm cuối trước Tây lịch. Về nguyên nhân phân
phái, vào năm 43 trước Tây lịch, kinh thành Anurādhapura của Sri Lanka bị những
người Bà-la-môn giáo Tamil từ Ấn Độ tấn công và chiếm đóng. Khi kinh thành thất
thủ, vua Vaṭṭagāmani
Abhaya và một số hoàng thân được hộ tống trốn thoát khỏi kinh thành. Sau đó, họ
được đưa đến và trú ẩn an toàn tại tu viện Hambugallaka do Trưởng lão Mahātissa
trụ trì. Những người Tamil theo Bà-la-môn giáo cai trị Sri Lanka trong 14 năm. Suốt thời
gian này, hàng chục nghìn Tăng Ni và Phật tử bị giết chết hoặc bị đói chết.
Hàng nghìn tu sĩ đã vượt biển sang tị nạn tại Ấn Độ. Đến năm 29 TTL, nhận thấy
thời cơ thuận lợi, vua Abhaya khởi binh tái chiếm kinh thành Anurādhapura. Cuộc chiến thắng lợi, vua
Abhaya trở lại ngai vua. Để tri ân Trưởng lão Mahātissa, vua xây cúng Trưởng
lão tinh xá Abhayagiri (Vô úy sơn). Trưởng lão Mahātissa chuyển đến sống tại Vô
úy sơn (Abhayagiri) và được kính trọng đặc biệt của vua và triều thần. Khi
chuyển đến tu viện Vô úy sơn, theo Nikāya-saṅgraha thuộc truyền thống Đại tự viện
(Mahāvihāra), Trưởng lão Mahātissa quan hệ quá gần gũi với các gia đình thế
tục. Do đó, chư Tăng Đại tự viện cho rằng trưởng lão Mahātissa đã vi phạm giới
luật Tỳ-kheo về sở hữu tài sản và quan hệ gần gũi với những người thế tục. Họ
yết-ma kết tội Trưởng lão Mahātissa. Tuy nhiên, nhiều Tỳ-kheo tại Đại tự viện
phản đối phán quyết của đa số chúng Tỳ-kheo Tăng. Và những Tỳ-kheo này cũng bị
cáo buộc là đồng tội với Trưởng lão Mahātissa. Để phản đối phán quyết của chư
Tăng Đại tự viện, họ đã rời tu viện này và đến sống tại tu viện Vô úy
sơn. Từ đó, họ không còn liên lạc với chư Tăng Đại tự viện(1).
Lúc đầu sự bất đồng giữa chư Tăng Đại tự viện
(Mahāvihāra) và Vô úy sơn (Abhayagiri) chỉ là sự bất đồng về những sai phạm
liên quan đến Trưởng lão Mahātissa. Nghĩa là lúc đầu chư Tăng ở hai tu viện chỉ
là bất đồng về giới luật. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Trưởng lão Mahātissa và
chư Tăng tại Vô úy sơn chấp nhận giáo thuyết của những tu sĩ thuộc bộ phái
Vajjiputtaka đến từ Ấn Độ, bộ phái này, theo các Trưởng lão thuộc truyền thống
Theravāda, có nhiều quan điểm sai trái với tinh thần lời Phật dạy(2). Những
sự bất đồng về giáo thuyết đã dẫn đến một cuộc tranh luận giữa phái Đại tự viện
và Vô úy sơn vào những năm cuối trước Tây lịch. Kết thúc cuộc tranh luận, chư Tăng
Vô úy sơn, thay vì biên chép kinh điển bằng tiếng Pāli như chư Tăng Đại tự
viện, họ đã biên chép kinh điển và giáo thuyết của họ bằng tiếng Sanskrit(3). Đến thế kỷ thứ III TL, sự bất đồng giữa
Đại tự viện và Vô úy sơn càng thêm sâu nặng khi chư Tăng Vô úy sơn thừa nhận
kinh điển của Đại thừa.
Nửa cuối thế kỷ
thứ III Tây lịch, những nhà truyền giáo Vaitulyavāda (Pāli: Vetullavāda) từ Ấn
Độ đã đến Sri Lanka.
Theo ngài Phật Âm (Buddhaghosa), các nhà truyền giáo này cũng được gọi là Mahāsuññavāda,
tức là những người theo trường phái tánh Không. Có thể họ là những người thuộc
trường phái Trung quán của ngài Long Thọ. Những nhà truyền giáo này mang theo
một số kinh điển viết bằng tiếng Sanskrit. Kinh điển này được gọi là kinh Vaitulya.
Theo ngài Vô Trước (Asanga) trong Abhidharma-Samuccaya, ba thuật từ Vaitulya,
Vaipulya và Vaidalya là đồng nghĩa. Và cũng theo ngài Vô Trước, kinh
Vaipulya được xếp vào Bồ-tát tạng(4). Kinh Vaipulya cũng được
gọi là kinh Phương đẳng Đại thừa. Như vậy, theo Giáo sư Kern và Paranavitana,
những nhà truyền giáo Vaitulyavāda là những nhà truyền giáo Đại thừa(5).
Kinh điển của họ được chư Tăng phái Vô úy sơn (Abhayagiri) thừa nhận như là
kinh điển của Phật giáo. Tuy nhiên, chư Tăng Đại tự viện (Mahāvihāra) phản đối
quyết liệt sự hiện diện của các nhà truyền giáo này cũng như kinh điển của họ.
Trước sự phản đối này, theo Nikāya-saṅgraha, vua Vohārika-Tissa - người ủng hộ cả
hai bộ phái, cử đại thần Kapila - người được cho là tinh thông cả luật pháp và
Phật pháp, duyệt xét nội dung kinh điển mới để xem có phù hợp với lời Phật dạy
hay không. Sau khi xét duyệt, đại thần Kapila kết luận rằng những kinh sách này
là kinh sách của những “kẻ dị giáo”. Vì vậy, toàn bộ kinh điển Đại thừa bị
thiêu đốt và các nhà truyền giáo Đại thừa bị trục xuất khỏi Sri Lanka.
Mặc dù vua
Vohārika-Tissa ngăn cấm tu sĩ Đại thừa vào Sri Lanka, nhưng khoảng 50 sau, khi
vua Vohārika-Tissa băng hà, vua Goṭhābahya (309-322) lên ngai, Phật giáo Đại thừa lại xuất hiện
trở lại tại Sri Lanka. Lần này, Tăng sĩ thuộc phái Vô úy sơn (Abhayagiri) lại
thừa nhận kinh điển Đại thừa là kinh điển của Phật giáo. Tuy nhiên, Trưởng lão
Ussiliya-tissa thuộc Vô úy sơn không chấp nhận kinh điển Đại thừa. Nên Trưởng
lão Ussiliya-tissa cùng 300 Tỳ-kheo, những thầy nghe theo lời khuyên của ngài,
rời khỏi tu viện Vô úy sơn đến sống tại tu viện Dakkināgiri. Sau này, chư Tăng
tu viện Dakkināgiri thành lập một phái mới, do Tỳ-kheo Sāgala lãnh đạo, gọi là
phái Sāgaliya. Sự thừa nhận kinh điển Đại thừa dẫn đến sự chia rẽ Tăng đoàn Vô
úy sơn đến tai vua Goṭhābahya
(309-322). Theo Nikāya-saṅgraha, vua Goṭhābahya yêu cầu các Tăng sĩ trí thức đại diện năm tu viện lớn
nhóm họp để thẩm xét kinh điển mới này. Sau khi thẩm xét, họ kết luận rằng
những kinh điển mới này không phải là lời dạy của Đức Phật. Và kinh Vaipulya
lại lần nữa bị thiêu đốt và sáu mươi Tỳ-kheo bị trục xuất khỏi Sri Lanka(6).
Nghe kinh điển
Đại thừa bị thiêu đốt và nhiều Tỳ-kheo bị trục xuất, Trưởng lão Sanghamitra,
lúc bấy giờ còn trẻ, vội đến Sri Lanka với ý định sẽ cố gắng giúp các Tỳ-kheo
bị kết tội là “kẻ dị giáo” và chuyển hóa vua Goṭhābhaya theo Đại thừa. Theo Đại sử (Mahāvaṃsa), bằng những phép
thuật của mình, Tỳ-kheo Sanghamitra đã chuyển hóa được vua Goṭhābhaya. Vua Goṭhābahya giao hai Hoàng tử
Jeṭṭha-Tissa và
Mahāsena cho ngài dạy bảo. Hoàng tử Mahāsena rất kính trọng Sanghamitra. Nhưng
Thái tử Jettha-Tissa không ủng hộ tư tưởng Đại thừa của Sanghamitra(7).
Sau khi vua Gothābhaya băng hà, Thái tử Jettha-Tissa (323-333) lên ngai vua,
Sanghamitra đã phải rời khỏi Sri Lanka về lại Ấn Độ. Tuy nhiên, sau khi vua
Jettha-Tissa qua đời, Hoàng tử Mahāsena kế vị, Trưởng lão Sanghamitra trở lại
Sri Lanka. Suốt 27 năm trị vì, vua Mahāsena (334-362) hết lòng ủng hộ ngài
Sanghamitra(8).
Được sự ủng hộ của vua Mahāsena, Trưởng lão Sanghamitra muốn chuyển hóa chư
Tăng thuộc truyền thống Đại tự viện (Mahāvihāra) theo truyền thống Đại thừa.
Tuy nhiên, chư Tăng Đại tự viện phản đối quyết liệt sự “cải hóa” này. Để tạo áp
lực lên chư Tăng Đại tự viện, vua Mahāsena ban hành sắc lệnh cấm người dân kinh
thành cúng dường phẩm thực cho chư Tăng Đại tự viện, ai cúng bị phạt 100 tiền
đồng. Chư Tăng Đại tự viện quyết định, thà chết chứ không chấp nhận giáo thuyết
“dị giáo.” Họ bỏ tu viện Đại tự viện đến lánh nạn tại Rohana và Malaya. Trong chín năm, tu viện Đại tự viện (Mahāvihāra)
bị bỏ hoang, một phần bị tháo gỡ để lấy vật liệu tu sửa tu viện Vô úy sơn
(Abhayagiri) nơi ngài Sanghamitra đang hành đạo(9). Các biên niên sử Tích Lan không
nói đến số người thiệt mạng vì không theo Đại thừa.
Hành động ủng
hộ Trưởng lão Sanghamitra của vua Mahāsena, theo các biên niên sử Tích Lan, gặp
phải sự phản đối dữ dội từ dân chúng và quần thần. Trong số họ, có tướng
Meghavanna-Abhaya. Tướng Abhaya, cũng là bạn thân của vua Mahāsena, tuyên bố ly
khai và khởi binh chống lại vua Mahāsena. Nhận thấy việc làm sai trái của mình,
vua Mahāsena chấp nhận hòa giải với tướng Abhaya và chấm dứt những hành động kỳ
thị giáo phái. Tướng Meghavanna-Abhaya cho người tu sửa lại Đại tự viện
(Mahāvihāva) và mời chư Tăng trở về Đại tự viện. Tuy nhiên, có một vụ việc
không hay xảy ra sau đó, nhiều Phật tử cực đoan giận dữ muốn giết Trưởng lão
Sanghamitra. Trong số đó có một vương phi, người được vua yêu mến. Bà đã thuê
người giết chết Trưởng lão Sanghamitra và đại thần Soṇa, người hết lòng ủng hộ Sanghamitra(10).
Vua Mahāsena
không còn bạc đãi chư Tăng Đại tự viện (Mahāvihāva), nhưng ông vẫn không ủng hộ
phái Đại tự viện. Do vậy ông xây dựng tinh xá Kỳ viên (Jetavana) bên cạnh
Đại tự viện để cúng dường Trưởng lão Tissa thuộc phái Sāgaliya của tu viện Dakkināgiri,
một phái tách ra từ phái Vô úy sơn. Theo chư Tăng Đại tự viện, Trưởng lão Tissa
là một Tỳ-kheo phạm trọng giới(11). Lúc đầu, Trưởng lão Tissa và
chư Tăng Kỳ viên giữ thái độ và tư tưởng trung lập. Họ không chống Đại tự viện
cũng không ủng hộ Vô úy sơn. Nhưng về sau, họ thừa nhận và thực hành theo tư
tưởng và kinh điển Đại thừa(12). Gần đây, người ta đã tìm thấy
những mảnh vụn bằng vàng khắc kinh Bát-nhã của Đại thừa trên một bảo
tháp của tu viện Kỳ viên(13). Phái Kỳ viên sau này cũng là một trong ba bộ phái có
ảnh hưởng và tồn tại cho đến thế kỷ thứ XII.
Tuy có những
hành động kỳ thị giáo phái, nhưng vua Mahāsena được xem là một vị vua hùng dũng
và có nhiều đóng góp cho đất nước Sri Lanka. Danh tiếng của ông cũng
được biết đến tại Ấn Độ vào thời điểm Phật giáo Đại thừa đang hưng thịnh tại Ấn
Độ. Theo ngài W. Raluha, Tăng sĩ và Phật tử Ấn Độ biết đến vua Mahāsena, có lẽ
vì ông là người ủng hộ Đại thừa. Và đối với Tăng sĩ và Phật tử ở Ấn Độ, tu viện
Vô úy sơn (Abhayagiri) trong giai đoạn trị vì của vua Mahāsena, được xem như là
trung tâm hoằng pháp của Phật giáo Đại thừa tại Sri Lanka(14).
Cũng chính vì vậy, xá-lợi Răng Phật, theo ngài W. Raluha, được những người theo
Đại thừa ở Ấn Độ, gởi đến hiến tặng cho vua Mahāsena và chư Tăng Vô úy sơn.
Nhưng ngọc xá-lợi Phật chưa kịp cung tống đến Sri Lanka thì vua Mahāsena đã băng
hà. Một pho tượng Bồ-tát bằng ngà voi được Hoàng tử Jettha-Tissa, con vua
Mahāsena tôn tạo. Điều này cho thấy, Đại thừa đã có ảnh hưởng tại Sri Lanka trong
giai đoạn trì vị của vua Mahāsena(15).
Vua Mahāsena qua đời, Thái tử Sirimeghavaṇṇa (362-) kế thừa ngai vị của vua cha. Ông chính
thức ngỏ lời xin lỗi chư Tăng Đại tự viện (Mahāvihāra) và những người ủng hộ
chư Tăng phái này về những việc mà phụ thân ông đã làm đối với chư Tăng Đại tự
viện. Vua Sirimeghavaṇṇa tôn tạo
thánh tượng Trưởng lão Mahinda và tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày Trưởng lão
Mahinda truyền Phật giáo đến Sri
Lanka. Ông mời đại diện chư Tăng của tất cả
các bộ phái Phật giáo tham dự Đại lễ. Vào niên đại Sirimeghavaṇṇa thứ chín, ngọc xá-lợi Răng Phật được cung tống
đến Sri Lanka từ Kalinga, Ấn Độ. Ngọc xá-lợi Phật được tôn trí trong một bảo
điện tại kinh thành và được trưng bày mỗi năm một lần tại tu viện Vô úy sơn để
quần chúng Phật tử chiêm ngưỡng.
Ngài W. Rahula
lưu ý rằng xá-lợi Răng Phật, sau này trở thành bảo vật hộ quốc của Sri Lanka,
được hiến cúng cho chư Tăng Vô úy sơn, không phải cho chư Tăng Đại tự viện. Nên
theo ngài, hoàng tử và công chúa, người cung thỉnh ngọc xá-lợi Phật đến Sri
Lanka, là những người theo Phật giáo Đại thừa và có liên hệ với Vô úy sơn(16).
Ngài Pháp Hiển, nhà chiêm bái đầu tiên của Trung Quốc đến Ấn Độ và Sri Lanka,
đã viếng thăm Sri Lanka vào đầu thế kỷ thứ V trong giai đoạn trị vì của vua
Buddhadāsa. Ngài đã viếng thăm và lưu lại một thời gian ở tu viện Vô úy sơn.
Ngài Pháp Hiển ghi lại, lúc bấy giờ, tu viện Vô úy sơn có 5.000 Tỳ-kheo. Trong
khi, tu viện Đại tự viện chỉ có 3.000 Tỳ-kheo(17).
Đến năm Silākāla thứ 12, một thương gia Ấn Độ từ Varanasi
mang theo kinh Dharmadhātu (kinh Pháp giới), một quyển kinh được cho là
của Đại thừa đến Sri Lanka.
Vua Silākāla (524-537), theo ngài W. Rahula, có lẽ đã có tiếp xúc với Phật giáo
Đại thừa trong thời gian ông lánh nạn tại Ấn Độ. Nên vua Silākāla rất tôn kính
kinh Pháp giới của Đại thừa. Ông tôn trí kinh này trong một bảo điện gần
hoàng cung và mỗi năm một lần kinh này được trưng bày tại tu viện Kỳ viên để
quần chúng Phật tử chiêm ngưỡng và lễ bái. Chư Tăng Đại tự viện và nhiều người
dân không thừa nhận và tôn kính kinh này(18). Tuy nhiên, Tăng sĩ Đại thừa và
Tăng sĩ thừa nhận kinh điển Đại thừa vẫn nhiều hơn Tăng sĩ thuộc truyền thống
Đại tự viện.
Ba mươi năm sau, trong giai đoạn trị vì của vua
Aggobodhi I (568-601) có một sự thay đổi đáng kể giữa các bộ phái Phật giáo khi
Trưởng lão Jotipāla, một tu sĩ thuộc truyền thống Theravāda Ấn Độ đến Sri Lanka. Để
bảo vệ luận thuyết của truyền thống Theravāda và phủ nhận giá trị của kinh điển
Đại thừa, Trưởng lão Jotipāla đã tham gia những cuộc tranh biện được tổ chức
nơi công cộng với sự tham dự của hàng nghìn Tăng sĩ các bộ phái và trí thức xã
hội. Theo Nikāya-saṅgraha, trong những lần tranh luận giữa ngài và các nhà
Đại thừa, Jotipāla đã đánh bại tất cả luận thuyết của các nhà Đại thừa Sri Lanka. Và
từ đó, cũng theo Nikāya-saṅgraha,
phái Vô úy sơn và Kỳ viên bị giải tán và một phần trở thành chi phái của Đại tự
viện(19).
Trưởng lão
Jotipāla hoàn toàn có thể thắng tuyệt đối trong những lần tranh biện với các
nhà Đại thừa Sri Lanka.
Bởi vì, theo ngài W. Rahula, Trưởng lão Jotipāla đến từ Ấn Độ, đất nước thường
xuyên tổ chức những cuộc tranh biện về triết học và tôn giáo ở nơi công cộng và
là tu sĩ Phật giáo, ít nhiều ngài phải ảnh hưởng phương pháp tranh biện của các
nhà logic học Phật giáo như Trần Na và Pháp Xứng. Trong khi, các Tăng sĩ Sri
Lanka ít có cơ hội tiếp xúc với những phương pháp tranh biện này từ Ấn Độ(20).
Sau kết quả tranh biện, vua Aggabodhi I ủng hộ Trưởng lão Jotipāla và chư Tăng
Đại tự viện. Tuy nhiên, Hoàng tử Dathāpabhati, người giữ thái độ im lặng về
những cuộc tranh biện giữa Trưởng lão Jotipāla và các nhà Đại thừa, đã lên
tiếng ủng hộ các nhà Đại thừa(21). Điều này cho thấy không có sự
bắt buộc theo hay không theo phái Đại tự viện. Vì vậy, có thể có Tăng sĩ của
hai bộ phái Vô úy sơn và Kỳ viên chuyển theo Đại tự viện. Nhưng khó có thể, tất
cả Tăng sĩ của hai bộ phái, đặc biệt là phái Vô úy sơn, đã có ảnh hưởng sâu
rộng trong xã hội và xuyên suốt mấy trăm năm, dù bị áp lực từ chính quyền hay
dân chúng, vẫn kiên quyết thừa nhận kinh điển Đại thừa, mà dễ dàng bị giải tán,
rồi hủy bỏ kinh điển Đại thừa và theo Đại tự viện. Hai phái Vô úy sơn và Kỳ
viên không hoàn toàn bị giải tán hay chuyển sang Đại tự viện nên sau đó, vua
Aggobodhi II (601-612) và hoàng hậu lại ủng hộ Vô úy sơn và Kỳ viên(22).
Trong hơn 200
năm kế tiếp, không thấy các biên niên sử Tích Lan đề cập nhiều về những tranh
luận giáo nghĩa hay giới luật giữa ba bộ phái. Thỉnh thoảng có vài lần “tịnh
hóa Tăng-già”. Nhưng nhìn chung, sau những lần “tịnh hóa Tăng-già” này, cả ba
bộ phái, Đại tự viện, Vô úy sơn và Kỳ viên vẫn cùng tồn tại. Và có nhiều chỉ
dấu cho thấy không nhiều thì ít tư tưởng và tín ngưỡng của chư Tăng và tín đồ
Đại tự viện đã chịu ảnh hưởng tư tưởng và tín ngưỡng của Đại thừa, cụ thể là
Đại thừa của Vô úy sơn(23).
Đến khoảng giữa thế kỷ thứ IX, trong giai đoạn trị
vì của vua Sena I (831-853), một số Tăng sĩ thuộc truyền thống Vajrayāna (Kim
cang thừa hoặc Mật tông) đã đến Sri
Lanka. Họ mang theo một số kinh điển Đại
thừa, trong đó có kinh Đại bảo tích (Ratnakuta) và nhiều hình tượng
Phật, Bồ-tát. Một số mảnh vụn bằng vàng viết kinh Bảo tích và một số
hình tượng Phật, Bồ-tát đã được tìm thấy, có niên đại trong giai đoạn trị vì
của vua Sena II (851-885). Những hình tượng này được tin là do vua Sena II
(851-885) tôn tạo(24).
Ba bộ phái Phật giáo Đại tự viện, (Mahavihara), Vô
úy sơn (Abhayagira) và Kỳ viên (Jetavana) cùng tồn tại và thịnh suy tại Sri Lanka
cho đến thế kỷ thứ XII. Đến thế kỷ thứ XII, vua Parakkama Bāhu I ủng hộ phái
Đại tự viện tiến hành “tịnh hóa” Tăng đoàn(25).
Sau lần “tịnh hóa” Tăng đoàn này, tu sĩ của hai bộ phái Vô úy sơn và Kỳ viên
hoặc buộc hoàn tục hoặc trở thành tu sĩ của Đại tự viện. Từ đó, hai bộ phái kia
không thể phục hoạt trở lại tại Sri
Lanka. Hiện nay, Phật giáo Sri Lanka là Phật giáo thuộc truyền
thống Mahāvihāra của Theravāda.
Bên cạnh Phật giáo
Đại thừa có tính kinh viện được truyền đến và tồn tại, lúc thịnh lúc suy, gần
1.000 năm tại Sri Lanka, Phật giáo Đại thừa có tính tín ngưỡng cũng được truyền
đến và ảnh hưởng sâu rộng, thậm chí cho đến ngày nay, trong đời sống tín ngưỡng
của người dân Sri Lanka. Chúng tôi sẽ trình bày những ảnh hưởng của tín ngưỡng
Đại thừa, đặc biệt là tín ngưỡng Bồ-tát Quan Thế Âm, trong đời sống tôn giáo
của người dân Sri Lanka trong một bài riêng biệt.
Lịch sử truyền
bá Phật giáo nói chung và các bộ phái Phật giáo nói riêng, lúc này lúc khác, có
những lần va chạm, nhưng chủ yếu là va chạm trên ngôn từ. Sự va chạm là điều
phải xảy ra trong quá trình vận động giữa khuynh hướng bảo thủ và cách tân(26).Lịch
sử truyền bá và phát triển Phật giáo tại Sri Lanka cũng có những lần va chạm
giữa bộ phái có tư tưởng bảo thủ và bộ phái có tư tưởng cách tân. Nhưng chính
nhờ những lần va chạm này mà ít nhiều tư tưởng của các bộ phái Phật giáo đã ảnh
hưởng qua lại. Và nhờ ảnh hưởng qua lại mà, ngày nay, Phật giáo Theravāda, tiêu
biểu của truyền thống này là Phật giáo Sri Lanka và Phật giáo Đại thừa có nhiều
điểm chung và Tăng sĩ của hai truyền thống xem nhau như huynh đệ trong ngôi nhà
chung của Phật giáo.
Chú thích
(1) W. Rahula, History
of Buddhism in Ceylon, Dehiwala: the Buddhist Cultural Centre, 1993,
tr.81-4.
(2) Như trên, tr.84-5.
(3) J. C. Holt &
Sree Padma, “Buddhism in Andhra and Its influence on Buddhism in Sri Lanka”, Buddhism
in the Krishna River Valley of Andhra, State University of New York Press,
2008, tr.115.
(4) W. Rahula, sđd.,
tr.87-9.
(5) Như trên, tr.89. Có
xem thêm trong S. Paranavitana, “Civilisation of the Early Period: Religion and
Art”, History of Ceylon, Colombo:
Ceylon University Press, tập I, 1959, tr.249-50.
(6) Mahāvaṃsa, sđd., tr.654-5;
E.W. Adikaram, Early History of Buddhism in Ceylon, Dehiwala: the
Buddhist Cultural Centre, 1994, tr.90-1.
(7) Mahāvaṃsa, như trên, tr.656.
(8) W. Rahula, sđd.,
tr.93.
(9) Mahāvaṃsa, sđd., tr.658-9.
(10) Như trên, tr.660.
(11) Như trên, tr.660-1.
(12) G. Panabokke, History
of Buddhist Sangha in India and Sri Lanka, Colombo:
University of Kelaniya, 1993, tr.95.
(13) J. C. Holt &
Sree Padma, sđd., tr. 116.
(14) W. Rahula, sđd.,
tr.96-7.
(15) Như trên, tr.114.
(16) Như trên, tr.97.
(17) Fa-Hein, A
Record of Buddhistic Kingdoms, J. Legge (dịch.) New Delhi: Munshiram Monoharlal, 1991,
tr.102, 107.
(18) W. Rahula. sđd.,
tr.102.
(19) Như trên, tr.103
(20) Như trên, tr.103.
(21) G. Panabokke, sđd.,
tr.95-6.
(22) W. Rahula, sđd.,
tr.103
(23) G. Panabokke, sđd.,
tr.96.
(24) W. Rahula, sđd.,
tr.109-10.
(25) Richard F. Gomrich,
Theravāda Buddhism, London:
Routledge, 2006, tr.157-8.
(26) Mỗi khuynh hướng
bảo thủ hoặc cách tân có điều hay của nó. Khuynh hướng bảo thủ có khả năng duy
trì được tính nguyên thủy của Phật giáo. Trong khi, khuynh hướng cách tân có
khả năng điều chỉnh một số nội dung của Phật giáo cho phù hợp với bối cảnh xã
hội mới. Hai khuynh hướng này bổ sung cho nhau. Nhờ bổ sung cho nhau mà Phật
giáo đã tồn tại và phát triển đến ngày nay và trở thành là một tôn giáo lớn của
nhân loại.
Thích Nguyên Lộc