một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Tây Tạng. Cung Potala
cao hơn 117m, chiều dài từ Đông sang Tây dài 360m, dựa lưng vào ngọn
Hồng Sơn (Marpori) phủ tuyết suốt mùa Đông, gồm 13 tầng, diện tích
12.000m, và là di sản văn hóa thế giới. Cung Potala có Phật điện thật
nguy nga, kim đỉnh huy hoàng với hơn 15 gian gồm Phật đường, kinh đường,
tháp điện. Đây là ngôi chùa lớn nhất Tây Tạng và là nơi ở của các vị
Đạt Lai Lạt Ma.
Tại đây, kiến trúc Mật giáo rõ nét nhất. Các bức tường
được tô màu bằng hai màu truyền thống trắng và nâu đỏ, các bức Mandala,
bích họa, bảo tháp làm bằng đồng thếp vàng. Cung Potala được chia làm 3
phần: Hồng cung, Bạch cung, Sơn cước hạ tuyết, và cũng là nơi ở của Đức
Lạt Ma thứ 14, nơi lưu trữ một bộ Tam tạng kinh được viết bằng 3 thứ
tiếng: Tây Tạng, Hán, Mãn Châu.
Ở
một nơi nữa, nơi mà tôi cảm thấy như lạc vào thế giới của những ngọn
nến bằng bơ, của những bức bích họa, của bức tượng Phật, Bồ - tát nơi mà
ta cảm nhận từng bước chân an lạc. Tới Jokhang (chùa Đại Chiêu), ta có
cảm giác như sống lại thời xa xưa của khởi nguồn Phật giáo Tây Tạng.
Chùa Jokhang tọa Đông hướng Tây, kết hợp giữa gỗ và đá, cao 4 tầng. Trên
đỉnh chùa được kiến trúc theo phong cách Mật giáo Tạng truyền chính và
mang một sống phong cách kiến trúc đời Đường Trung Hoa.
Theo lịch sử Tây
Tạng, thời vua Songsten Gampo (Tùng Tán Cán Bố) có 2 hoàng hậu, một là
Xích Tôn – công chúa Nepal, một là Văn Thành – công chúa nhà Đường. Đây
cũng là hiện thân của Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Tàrà sinh ra từ nước
mắt Quán Thế Âm, nàng công chúa Nepal chính là Tàrà sắc lục, Văn Thành
công chúa là Tàrà sắc trắng.
Khi Văn Thành công chúa lấy chồng, nàng
mang theo pho tượng Thích Ca Mâu Ni 12 tuổi và rất nhiều kinh Phật khác.
Phần lớn các tranh tượng đều ở tầng 1, tổng thể diện tích trên 2.500m
và được chống đỡ bằng các cột gỗ. Các cột gỗ này có từ thế kỷ XVII cho
đến nay. Đặc sắc nhất là các bích họa ngoài hành lang của chùa. Trong
Phật điện còn bảo tồn được các loại pháp khí đời Đường, tương truyền cho
công chúa Văn Thành mang sang. Chúng được chế tác từ đá.
Trong
các chùa Tây Tạng, các Chuyển luân kinh đều được thiết lập dọc đường
đi. Bên ngoài khắc 6 chữ: Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn. Bất kỳ một ngôi
chùa nào ở Tây Tạng cũng đều có trang trí bảo bình, bảo cái, pháp luân…
Trước Phật điện có biểu tượng Chuyển pháp luân tại vườn Nai. Những Phật
tử hành hương về Tây Tạng, tay cầm kinh luân, xoay chuyển cho kinh luân
quay đều, dường như cả vũ trụ thần bí đang âm thầm ở trong lòng bàn tay
những con người nhỏ bé đó! Họ đang đi theo dòng chảy của Phật giáo, vừa
đi vừa niệm “Ommanipadminhum”, hoặc đi theo thế “tam bộ nhất bái, ngũ
thể đầu địa”, hành hương tới đất Phật với một niềm tin bất diệt.
2. Chùa Zhaibung (Triết Bạng) và Samye (Tang Da)
Tại
chùa Triết Bạng, ngôi chùa lớn nhất của Hoàng giáo Taya, vẫn duy trì
hình thức biện kinh. Từ trên chùa Niết Bạng nhìn xuống, thung lũng đầy
mây trắng, hơi nước mờ ảo vẫn còn đọng lại trên những chiếc lá. Biện
kinh là một sinh hoạt thường nhật của chưa Tăng Tây Tạng.
Biện kinh cũng
giống như hỏi thi vấn đáp của Việt Nam ta, nhưng ở đây, chư Tăng sinh
hoạt ngay trên sân, và ngồi quây quần với nhau. Sau đó, một vị Tăng đứng
lên đặt ra câu hỏi, và chỉ định người trả lời. Chính vì hình thức hỏi
thẳng, đáp nhanh, đúng trọng tâm vấn đề, nên kinh sách và khả năng hùng
biện, thuyết pháp, thường được truyền bá rất nhanh và hiệu quả.
The main building of the Samye Monastery (Ảnh Wikipedia)
Ấn
tượng nhất là khi đến thăm Tang Da, ngôi chùa được xây dựng vào thế kỷ
thứ VIII, cách Lhasa 300km. Đường đi vô cùng nguy hiểm trên hoang mạc
cát, nơi Bồ tát Liên Hoa Sinh (Padma sambhava) đã đến đây và xây dựng
chùa Tang Da. Và đây là ngôi chùa có nhiều tượng Phật nhất thuộc Hồng
giáo.
Tương truyền rằng Tổ Liên Hoa Sinh vốn sinh ra từ hoa sen tại miền
linh địa Ô – trượng – na (Tây Bắc Kashmar). Tổ Liên Hoa Sinh đã dẹp trừ
được các thần ma quái, đưa họ về chính pháp, lập ra phái Hồng giáo và
để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử Hồng giáo Tây Tạng.
Chùa Tang
Da nổi tiếng nhất qua 4 bảo tháp trấn bốn phương. Hồng tháp (Pháp luân
tháp – theo phong cách Bồ tát thừa), Bạch tháp (Đại Bồ đề tháp – theo
phong cách của Thanh Văn thừa), Lam tháp (Thiên long tháp – theo phong
cách Như lai thừa), Hắc tháp (Niết bàn tháp – phong cách Phật thừa)…
Ngoài ra, chúng ta quan sát có thể thấy hàng ngàn tháp được đặt trên
tường bao quoanh toàn bộ chùa Tang Da.
3. Sắc màu huyền bí
Đến
Tây Tạng, dẫu lòng người vô tình đến đâu thì cũng có lúc chùng xuống
nao lòng trước vẻ đẹp của một nơi dường như chỉ toàn đất đá, hoang mạc,
hay núi tuyết. Vẻ đẹp của Tây Tạng, một vẻ đẹp dường như làm ta ngỡ
ngàng bởi đất, bởi nắng, bởi gió, tuyết và mây… Mây Tây Tạng thật tuyệt
vời. Những áng mây bồng bềnh trên bầu trời, kết hợp với sự hùng vĩ của
dãy Himalaya, mây và tuyết, tràn ngập trên những đỉnh núi, tạo nên những
sắc màu diệu kỳ.
Người viết thật có duyên, đã chụp được những bức ảnh:
“Bạch Tuyết Kỳ Phong, Phật Nhật Tường Vân, Bạch Vân Thanh Sơn, Thiên
Quang Vân ảnh, Sơn Tự Tại, Bạch Vân Thuỵ Tuyết”… nhưng dường như vẫn
chưa thể nào diễn tả được hết vẻ đẹp của những ngọn núi cô liêu phủ đầy
tuyết trắng. “Bạch vân phi khứ thanh sơn tại/Thanh sơn thường tại bạch
vân trung”. Những hoang mạc cát bồng bềnh mây trắng không một bóng chim
kêu.
Sự im lặng của không gian bao trùm. Phong cách đẹp một cách kỳ lạ,
và cảm hứng đã ùa tới, khó kìm nén: “Sơn sắc khê thanh chân thật
nghĩa/Thiên quang vân ảnh khứ lai thân”… Thật may mắn khi được chấn kiến
cảnh sắc miền đất thánh, dường như ta đang bước nhẹ nhàng vào cõi sắc
giới. Khi chụp những bức ảnh này, người viết linh cảm chúng sẽ gây hiệu
quả bất ngờ cho chính mình bởi sự huyền ảo và độc đảo, đầy huyền bì về
mây, tuyết, và những sa mạc cát hoang vu…
Họa
sĩ Tây Tạng là những người làm mandala, có những bức mandala, có những
bức mandala thật to, nhưng cũng có bức nhỏ, tùy theo nhu cầu. Họ thường
làm theo nghề truyền thống, cha truyền con nối, hay nói cách khác là
nghề gia truyền. Màu sắc trên những bức mandala, thanka thường là các
màu nguyên thủy từ đá và cây, nhưng cũng có sự sáng tạo của các họa sĩ.
Họ là những người góp phần tạo nên một Tây Tạng huyền bí và linh thiêng.
Tây
Tạng, một miền đất mà dường như vẫn còn sức hút mầu nhiệm linh thiêng
với tôi. Trên nền đất nâu kia, nơi mà phía xa xôi, trên đỉnh núi gập
ghềnh kia, còn là những thất cốc cô độc, nơi ẩn cư của những vị Lạt Ma.
Đường đi tới đó, thật là khó khăn, “Núi không cao thì cảnh chẳng kỳ/
Đường không dài, thì lòng người khôn tỏ”, nhưng có kẽ, con đường tu tập
là vậy.
Các vị Lạt ma sẽ ngồi thiền định ở đó, cách biệt thế giới bên
ngoài, chỉ liên lạc với bên ngoài bằng một cái ô nhỏ, để bên ngoài đặt
thức ăn vào đó. Qua 6 tháng, 12 tháng, 2 năm, 6 năm, 20 năm… Từng đơn vị
thời gian nhập thất tăng lên…, đã có vị Lạt ma, qua 12 năm, rồi một
ngày nào đó, khi thị giả không thấy thầy mình lấy thức ăn nữa, mở mật
thất bước vào, thì Lạt ma đã thị tịch. Khỏi ai không bâng khuâng trước
những mật thất như vậy…?
Sắc
màu của Tây Tạng có sức lôi cuốn đến lạ kỳ. Từ màu sắc truyền thống
trên các bức tường của các đền chùa như nâu, trắng, đỏ, rồi màu đỏ của y
phục Tây Tạng, màu tuyết trắng xóa, và màu của mây núi trên cao xanh
kia… màu xanh lam lững lờ của dòng sông huyền thoại Yarlung Tsangpo, nơi
khởi nguồn của những con sông lớn như Hoàng Hà, Mê Kông, hay màu đỏ
hồng trên đôi má đứa trẻ đang nhìn mẹ lần tràng hạt, màu của những của
các pho tượng Phật…, tất cả những sắc màu đó, hiển hiện, và trường tồn
qua thời gian.
Rời
Lhasa Tây Tạng, cảm xúc huyền nhiệm vẫn hiện về, nơi những miền đất
chịu nhiều khí hậu khắc nghiệt, nơi “Thượng sơn thượng thủy thượng Laha –
sha/ Triều Phật triều thần triều Tà – ra”, nơi Phật giáo đã trải qua
biết bao thăng trầm nhưng vẫn tồn tại và phát triển, lòng chợt lưu
luyến, nhớ về nơi mà ánh sáng của Đức Phật soi rọi, chiếu sáng trong tâm
hồn mỗi người.
(Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 26)