Tôi
đã không lớn lên như một người Ki Tô hữu. Trong thực tế, ông bà tôi về
phía mẹ tôi trước đây đã từ bỏ Nhà Thờ Ki Tô Giáo, mặc dù ông cố tôi là
một mục sư Giáo phái Tin Lành Giám Lý – Wesley. Dưới ảnh hưởng của mẹ,
tôi đã lớn lên trong một môi trường chống đối nhà thờ, một điều mà tôi
đã có thể gọi là thuộc chủ nghĩa nhân văn lỏng lẻo. Bây giờ, tôi thấy
rằng tôi đang trở về càng ngày càng nhiều hơn với nền văn hóa mà tôi đã
lớn lên. Mặc dù tôi ngưỡng mộ nhiều giá trị đạo đức Ki Tô, nhưng tôi
không có một cảm thông tự nhiên với truyền thống Ki Tô Giáo. Tuy thế,
tôi thật sự tìm thấy chính mình gia tăng tình cảm với kinh nghiệm của
chính mình như một người theo chủ nghĩa nhân bản, một người theo chủ
nghĩa thế tục, một người theo chủ nghĩa bất khả tri. Thậm chí tôi đang
bắt đầu xem xét lại một cách tích cực là một người theo chủ nghĩa vật
chất có ý nghĩa gì — một thuật ngữ đúng hơn là có ấn tượng xấu trong Đạo
Phật.
Thuật ngữ ” người theo chủ nghĩa bất khả tri [1]”
là một danh từ mà tôi xem là gần gũi nhất. Tuy thế, ít người nhận ra
rằng nó chỉ được xuất hiện vào cuối những năm 1880 bởi một nhà sinh vật
học, Thomas Huxley. Nó được hình thành như một chuyện đùa. Huxley
thuộc một nhóm nhỏ những triết gia ở Luân Đôn mà ông tự cảm thấy sự lạc
lỏng đang gia tăng. Trong khi mọi người khác trong nhóm có thể thật sự
xác định chính họ như một Ki Tô hữu hay một người theo chủ nghĩa duy lý
hay một người theo chủ nghĩa Schopenhauer [2],
hay bất cứ thứ gì, ông cảm thấy lúng túng vì không có thuật ngữ nào
dường như thích hợp với ông. Thế là ông quyết định tự gọi mình là một
người theo “chủ nghĩa bất khả tri ” nhằm để cho thấy rằng ông cũng “có
thể có một cái đuôi như những con cáo kia”.
Huxley đã bắt đầu phát triển ý tưởng ấy. Ông thấy rằng chủ nghĩa bất
khả tri cũng đòi hỏi đạo đức, triết lý hay niềm tin như bất cứ tôn giáo
nào. Nhưng ông từ chối để thấy nó như một niềm tin trong ý nghĩa
truyền thống của từ ngữ, và đã thấy nó như là một phương pháp nhiều
hơn. Phương pháp mà ông có trong tư tưởng một cách rộng rãi lấy những
thẩm nghiệm khoa học làm nền tảng. Có nghĩa là, về một mặt, lấy lý trí
con người đến mức tối đa, và về mặt kia, không chấp nhận bất cứ điều gì
như sự thật ngoại trừ thế nào ấy nó có thể chứng minh được. Ở đây có
những sự song hành rất rõ ràng với truyền thống Phật Giáo. Mặc dù chúng
ta có thể không thể tìm thấy nhiều trong Thiền Tông – Zen, nhưng trong
truyền thống Ấn – Tạng có sự nhấn mạnh trong việc thẩm tra lý trí. Tôi
đã là một tu sĩ trẻ trong nhiều năm không phải thực hành trong công án
mà học hỏi luận lý học và nhận thức luận chính thức với những lạt ma Tây
Tạng. Đấy là một truyền thống rất mạnh mẽ, dựa trên lý trí và tôi cảm
kích vô vàn vì đã có được sự rèn luyện như thế. Tất cả mọi truyền thống
Phật Giáo đồng ý rằng người ta không nên tin tưởng vào điều gì đấy một
cách đơn giản chỉ vì lợi ích của việc tin tưởng vào điều ấy, mà chỉ khi
nếu nó có thể thế nào ấy được chứng minh như đúng đắn, nếu nó có thể
được thân chứng trong một cung cách thực tiển nào đấy.
Huxley thậm chí đã diễn tả quan điểm của ông như “tín ngưỡng bất khả
tri “, vì thế cho nó một loại tính chất nghiêm túc mà nếu khác đi người
ta có thể chỉ mong đợi trong những người tín ngưỡng thuần túy. Và chỉ
trong vòng mười lăm năm khi Huxley hình thành thuật ngữ, “chủ nghĩa bất
khả tri ” đã được nối kết với Đạo Phật. Nó lần đầu tiên được áp dụng
bởi một người đàn ông tên là Allan Bennett, người trở thành một vị tỳ
kheo ở Miến Điện năm 1901 với pháp danh là Ananda Metteyya[3].
Bennett là người Anh Quốc đầu tiên được thọ giới như tu sĩ Phật Giáo và
là người Âu châu đầu tiên đã cố gắng để trình bày có hệ thống sự thấu
hiểu của mình về Giáo Pháp như một Phật tử thực hành hơn là chỉ đơn
thuần như một học giả Đạo Phật. Trong một tạp chí ông phát hành ở
Rangoon năm 1905, ông đã nói về Đạo Phật như “trùng hợp một cách chính
xác trong những ý tưởng nền tảng của nó với triết lý bất khả tri hiện
đại của Tây phương.”
Vào đầu thế kỷ hai mươi, khi người Tây phương chỉ mới bắt đầu tiếp
nhận giáo thuyết của nhà Phật, tại sao một tu sĩ trẻ Anh Quốc lại xem
Đạo Phật như chủ nghĩa bất khả tri? Tôi phỏng đoán một trong những
nguồn gốc then chốt có thể là từ trong thông điệp nổi tiếng từ kinh
Cula Malunkya, kinh thứ sáu mươi ba của Trung Bộ Kinh, thuộc tạng Pali.
Đức Phật nói: ” Này Malunkyaputta, ví như một người bị mũi tên bắn, mũi
tên được tẩm thuốc độc rất dày. Bạn bè và bà con huyết thống của người
ấy mời một vị y sĩ khoa mổ xẻ đến săn sóc. Nhưng người ấy lại nói: “Tôi
sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đã bắn tôi
thuộc giòng hoàng tộc, hay Bà-la-môn, hay buôn bán, hay người làm công”.
Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào
tôi chưa biết được người đã bắn tôi tên là gì, tộc tánh là gì?” Người ấy
có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa
biết được người đã bắn tôi là cao hay thấp, hay người bậc trung”. Người
ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa
biết được người đã bắn tôi là da đen, da sẫm hay da vàng”. Người ấy có
thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết
được người đã bắn tôi thuộc làng nào, thuộc thị trấn nào, thuộc thành
phố nào”. Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra
khi nào tôi chưa biết cái cung mà tôi bị bắn, cái cung ấy thuộc loại
cung thông thường hay loại cung nỏ”. Người ấy có thể nói như sau: “Tôi
sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được dây cung mà tôi
bị bắn, dây cung ấy làm bằng cây leo, hay cây lau, hay một thứ gân, hay
một thứ dây gai, hay một thứ cây có nhựa”. Người ấy có thể nói như sau:
“Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị
bắn, cái tên ấy thuộc một loại cây lau này hay cây lau khác”. Người ấy
có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa
biết cái tên mà tôi bị bắn, mũi tên ấy có kết lông gì, hoặc lông con
kên, hoặc lông con cò, hoặc lông con ó, hoặc lông con công, hoặc lông
một loại két”. Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ không rút mũi tên
này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy được cuốn
(parikkhittam) bởi loại gân nào, hoặc là gân bò cái, hoặc là gân trâu,
hoặc là gân nai, hoặc là gân lừa”. Người ấy có thể nói như sau: “Tôi sẽ
không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn,
cái tên ấy thuộc loại tên nhọn, hay thuộc loại tên móc, hay thuộc loại
tên như đầu sào, hay thuộc loại tên như răng bò, hay thuộc loại tên như
kẽm gai”. Này Malunkyaputta, người ấy sẽ chết và vẫn không được biết
gì.”[4]
Đoạn kinh này cho thấy một cách rất rõ ràng cả tính chất thực tiển của
lời Phật dạy, cũng như xu hướng của chủ nghĩa bất khả tri. (Ảnh minh
họa: Ananda Metteyya)
Điều quan trọng là phân biệt giữa những vấn đề được trình bày bởi cốt
lõi giáo huấn của Đức Phật, và những thứ không phải là điều trọng tâm.
Tôi đã nghe trên đài truyền thanh không lâu ở Anh Quốc một cuộc thảo
luận về niềm tin tôn giáo. Tất cả những người tham dự dấn thân trong
một cuộc thảo luận sôi động về khả năng của những phép lạ (thần thông).
Tổng quát thừa nhận rằng là một giáo hữu thì đòi hỏi việc tin tưởng
những điều gì đấy về bản chất tự nhiên của chính mình và trong thực tế
khái quát là vượt ngoài sự thấu đạt của lý trí và thẩm tra của kinh
nghiệm. Điều gì đã xảy ra trước khi sinh, chuyện gì sẽ xảy ra sau khi
chết, bản chất tự nhiên của linh hồn và mối quan hệ của nó với thân thể:
đây là những vấn đề tôn giáo trước tiên và quan yếu nhất. Và Đức Phật
chẳng quan tâm đến chúng. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào Đạo Phật một cách
lịch sử, chúng ta sẽ thấy rằng nó có khuynh hướng một cách liên tục để
bỏ rơi không gian bất khả tri này qua việc bị đặt trong cơ cấu như một
tôn giáo, với tất cả những hệ thống tin tưởng giáo điều thông thường mà
những tôn giáo hướng đến để có. Do thế, một cách vô tư mà nói, nếu
chúng ta đi đến nhiều quốc gia Á châu hiện nay, chúng ta sẽ thấy rằng
những tu sĩ và giáo sĩ, những người thống lĩnh các thể chế Phật Giáo có
những quan điểm khá rõ ràng về vấn đề thế giới là vĩnh cữu hay không,
điều gì xãy ra sau khi Đức Phật niết bàn, và vị thế của tâm thức trong
sự liên hệ với thân thể, v.v…
Điều này đã đưa Đạo Phật khi nó đến phương Tây tự động được xem như
là một tôn giáo. Ngay chính thuật ngữ “Phật Giáo – Buddhism”, là một từ
ngữ mà đối với người Á châu không có một sự tương đồng chính xác, rõ
ràng là định hướng của những học giả phương Tây. Nó giả định một tôn
giáo cùng với những tôn giáo khác; một loại niềm tin khác về bản chất tự
nhiên của thực tại mà chúng ta không thể biết bằng những phương tiện gì
khác hơn là qua niềm tin. Sự mệnh danh này, mặc dù thế, có khuynh
hướng bóp méo hay làm chướng ngại việc thâm nhập Phật Pháp với nền văn
hóa bât khả tri thế tục. Và một vấn đề khác là ngày hôm nay chính năng
lực của thuật ngữ “bất khả tri” đã bị mất đi. Nếu một người nào đó nói
rằng họ là một người bất khả tri, mặc dù họ biết nó có nghĩa là một
người tự nhận không biết một vấn đề gì đấy, nhưng nó thường bị đánh đồng
với một thái độ rằng người ấy không quan tâm những vấn đề như vậy.
“Tôi không biết điều gì xãy ra sau khi chết” trở thành đồng nghĩa với:
“Tôi không cần biết; tôi thật sự không muốn biết; tôi thậm chí không
muốn nghĩ về điều ấy.” Chủ nghĩa bất khả tri hiện đại đã đánh mất sự
quả quyết mà nó đã có vào thời của Huxley, và rơi vào chủ nghĩa hoài
nghi (scepticism). Đạo Phật cũng thế đã đánh mất khía cạnh nổi bật mà
mà chúng ta thấy trong kinh tạng Pali, và dĩ nhiên, trong Công án Thiền[5] cũng thế. Đương nhiên, Đạo Phật như một cơ cấu đã có khuynh hướng rơi vào lòng mộ đạo của tín ngưỡng.
Vậy thì, một người Phật tử bất khả tri ngày hôm nay giống như thế
nào? Thậm chí chúng ta bắt đầu để nghĩ về một vị thế như vậy ra sao?
Trước nhất, tôi sẽ đề nghị rằng một Phật tử bất khả tri sẽ không xem
Giáo Pháp hay những lời dạy của Đức Phật như căn bản để cung cấp những
câu trả lời cho các câu hỏi về những vấn đề như chúng ta sẽ về chốn nào,
chúng ta đến từ nơi nào, tính bản nhiên của vũ trụ là gì, v.v… Trong ý
nghĩa này, một Phật tử bất khả tri sẽ không là một người của tín ngưỡng
với những yêu cầu khai mở tin tức về những hiện tượng siêu nhiên hay
huyền bí và trong ý nghĩa này sẽ không là tôn giáo. Tôi mới đây đã bắt
đầu nói với chính mình: “Tôi không là một người tôn giáo,” và thấy rằng
đấy là một sự giải thoát kỳ lạ. Chúng ta không cần phải là một người
của tôn giáo nhằm để thực hành Phật Pháp.
Thứ đến, một Phật tử bất khả tri sẽ không lưu ý những ẩn dụ trong
Giáo Pháp cho sự an ủi. Đây là một đặc trưng lớn khác của những tôn
giáo: chúng cung cấp niềm khoây khỏa trong bộ mặt của sinh và tử; chúng
cung ứng những hình ảnh của một kiếp sống tới khá hơn; chúng đưa ra một
loại bảo đảm rằng có thể đạt đến kết quả qua một hành động của niềm
tin. Tôi không thích thú trong những điều ấy. Những lời dạy của Đức
Phật là đối trị; chúng là lời nói chân thật, không phải tô vẻ một bức
tranh đẹp đẻ nào đấy về một đời sống ở nơi nào đấy. Chúng nói rằng:
“Hãy nhìn, hiện hữu là khổ đau.” Đây là những gì đặc biệt về thái độ
của Phật Giáo: nó bắt đầu không phải từ một hứa hẹn về sự cứu rỗi, mà từ
việc đánh giá ý nghĩa thống khổ của sự tồn tại đó và chúng ta hoặc là
có khuynh hướng lãng quên, phủ nhận hay lẩn tránh qua tiêu khiển.
Đạo Phật thường bị trình bày sai lạc như điều gì đấy hư vô hay phủ
nhận đời sống. Điều này thất bại để nhận ra công trình của Bốn Chân Lý
Cao Quý là để giải quyết tình trạng khó xử của nổi thống khổ, không phải
về việc theo đuổi nổi khổ đau của con người. Một lần nữa, nó là thói
quen tập quán; nó là điều gì đấy mà chúng ta có thể hành động. Nó bắt
đầu với sự thấu hiểu về thực tại của khổ não và sự không chắc chắn, và
rồi thì áp dụng một loạt những thực tập hướng tới một giải pháp. Nhưng
loại chủ nghĩa bất khả tri này không căn cứ trên sự dửng dưng thờ ơ; nó
không nói rằng, “Tôi đúng là không quan tâm đến những vấn đề lớn lao như
sống chết (sinh tử sự đại).” Nhưng nó là một nhận thức mê ly mà tôi
không biết. Tôi thật sự không biết tôi đến từ chốn nào; tôi không biết
tôi sẽ đi về nơi nào. Và cái “không biết” đó là một trật tự rất khác
biệt với cái “không biết” từ chủ nghĩa hoài nghi và sợ hãi của một loại
bất khả tri nông cạn.
Tiến trình này cuốn đi những ảo tưởng khuây khỏa bằng việc nắm lấy
đúng cái không biết bất khả tri này, đưa đến những gì mà chúng ta có thể
gọi là “chủ nghĩa bất khả tri sâu sắc”. Tôi thích nghĩ về Đạo Phật như
sự thực tập của thuyết bất khả tri sâu sắc. Điều này đưa ra khỏi cả
chủ nghĩa bất khả tri thiển cận của phương Tây đương đại, và bắt đầu đề
cập đến một không gian dường như thiết yếu đến trái tim của sự thực tập
Phật Pháp. Để soi sáng điều này, đây là một công án; tắc thứ bốn mươi
mốt trong Vô Môn Quan:
Bồ Đề Đạt Ma ngồi quay mặt vào tường. Nhị tổ, đừng trong tuyết, cắt
tay và nói, “Tâm của đệ tử không an. Xin thầy an tâm cho.” Tổ nói,
“Đem tâm con đến đây, ta sẽ an tâm cho con.” Nhị tổ trả lời, “Con tìm
mãi mà không thấy tâm đâu.” Bồ Đề Đạt Ma nói, “Ta đã an tâm cho con.”
Sự “không biết” sâu xa này, trong trường hợp này Nhị tổ không thể tìm
ra cái tâm khổ sở của mình, đưa sự chú ý của chủ nghĩa bất khả tri
xuống một bước sâu hơn. Người ta có thể gọi nó là một chiều sâu quán
chiếu. Ẩn dụ bất khả tri sâu xa như vậy được tìm thấy tương tự trong
những dạng thức như vô tâm (không tâm) và vô tư (không tư duy), cũng như
trong “Không Biết Tâm” phổ thông hơn của Thiền sư Đại Hàn, Seung Sahn
(Sùng Sơn Hạnh Nguyện Đại Thiền sư).
Một đặc trưng nổi bật khác của công án này là sự tương tự của nó với
tiến trình thấu hiểu tính không như được tìm thấy trong triết học Trung
Quán của Ấn Độ và Tây Tạng. “Tính không” là một thuật ngữ kém mặn mà
bất thường. Tôi không nghĩ là nó có bao giờ có nghĩa là hấp dẫn.
Herbert Guenther có lần đã chuyển dịch nó như là “không gian khai mở
của biểu hiện[6],”
nghe dường như có vẻ quyến rũ hơn là “tính không”. “Tính trong sáng”
là một thuật ngữ mà tôi đã dùng một thời gian, là điều cũng làm cho tính
không nghe có vẻ dễ chịu hơn. Tuy thế, chúng ta phải nhớ rằng thậm chí
hai nghìn năm trước đây, Long Thọ đã phải tự bảo vệ chống lại sự bao
hàm hư vô của tính không. Nhiều chương trong những tác phẩm triết lý
của ngài bắt đầu với người nào đấy chống đối: “Tính không này là một ý
tưởng kinh khủng. Nó đục khoét mọi nền tảng của đạo đức. Nó phá hoại
mọi thứ mà Đức Phật đã nói đến.” Rõ ràng từ ngữ này cũng đã không có
một tiếng vang tích cực ngay tự thuở ấy. Tôi phỏng đoán rằng nó có thể
đã từng được dùng một cách có ý thức như một thuật ngữ không hấp dẫn, là
điều cắt ngang qua toàn bộ vọng tưởng an ủi mà người ta mong đợi tôn
giáo cung ứng. Có lẽ chúng ta cần khôi phục lại khía cạnh cấp tiến này
của tính không, khía cạnh không hấp dẫn của nó.
Hãy trở lại với Bồ Đề Đạt Ma và đệ tử của ngài, Nhị tổ Huệ Khả.
Dường như mặc dù nổi đau tiến thoái lưỡng nan quá nghiêm trọng nên ông
đã chuẩn bị cắt tay để giải quyết nó. Nổi đau này đã được xoáy chung
quanh một loại ung bướu khổ đau nào đấy trong tâm thức của Huệ Khả, ý
nghĩa tối sơ về ông ta là ai (bản lai diện mục). Tuy thế, bằng việc
thẩm tra sâu xa trong nổi đau này, cô lập bản ngã, ông không thể tìm ra
sự chấp trước căn yếu và nói: “Đấy là tâm tôi. Nó ở đấy. Tôi đã nắm
được nó. Tôi xác định nó. Tôi nhận ra nó.” Thay vì thế, ông khám phá
ra cái căn yếu không thể tìm thấy của tâm, và qua sự ẩn ý cái không thể
tìm thấy căn yếu của bản ngã và mọi vật. Và điều này cho chúng ta một
dấu hiệu quan trọng để thông hiểu những khái niệm về tính không và
“không tâm”. Chúng không có nghĩa rằng chính xác là không có tâm; chúng
đang nói rằng nếu chúng ta cố gắng để thấu hiểu bản chất tự nhiên của
bất cứ thứ gì trong ý nghĩa sâu thẩm nhất, chúng ta sẽ không thể đi đến
bất cứ một quan điểm cụ thể nào đấy được định nghĩa nó như là điều này
hay điều kia. Đức Đạt Lai Lạt Ma sử dụng một thành ngữ kỳ quặc thông
tục trong Tạng ngữ: dzugu dzug-sa mindoo, có nghĩa đen là: “Không có
ngón tay – điểm chỉ – nơi chốn.” Hay như chúng ta có thể nói: “Không
có điều gì chúng ta có thể đặt ngón tay lên.” Một lần nữa điều này
không hàm ý rằng sự vật trong vấn đề hoàn toàn không hiện hữu. Nó đơn
thuần biểu lộ sự lừa dối của cảm nhận sâu xa, sự thừa nhận bẩm sinh rằng
bản ngã của chúng ta, tâm thức hay bất cứ thứ gì khác phải được bảo đảm
trong một căn bản thường còn, huyền ảo. Tuy thế, tính độc nhất của tâm
thức hay đặc tính của con người, tính đặc thù của một bông hoa sinh
trưởng trong vườn ngoài kia, không đòi hỏi bất cứ loại căn bản trừu
tượng nào riêng biệt đến vật ấy. Tính không biểu thị mọi vật hình thành
như thế nào qua một ma trận không thể lập lại của ngẫu nhiên, điều
kiện, nguyên nhân cũng như những khuôn mẫu của nhận thức, ngôn ngữ và
văn hóa. Mọi thứ phát sinh từ một sự phối hợp cực kỳ phức tạp của những
sự kiện nhất thời lên đến cực điểm, trong trường hợp đặc thù này,
trong lời nói những ngôn ngữ này của tôi đến quý vị.
Bây giờ cho dù chúng ta đi theo phương pháp phân tích Ấn-Tạng hay sự
tiếp cận của công án như câu hỏi “Cái gì đây?” sự thẩm vấn như vậy đưa
tâm thức trở nên tĩnh lặng và trong sáng hơn. Nhưng một cách nghịch lý
điều này không có nghĩa là mọi thứ rồi thì sẽ trở nên chính xác hơn,
rằng chúng ta đạt đến một sự thông hiểu sau cùng về vấn đề ta là ai hay
điều gì làm nên tiếng đập của vũ trụ. Bởi vì, vào cùng lúc những thứ
như vậy trở nên sinh động hơn và rõ ràng hơn, chúng cũng trở nên huyền
bí hơn. Chúng ta chạm trán, như nó là, cái bí ẩn tuyệt đối của sự vật.
Một chủ nghĩa bất khả tri sẽ được chúng ta tìm thấy trong loại bất tri
này: sự thừa nhận rằng, trong dạng thức của thực tại đời sống là, tôi
thật sự không biết. Và trong cái không biết đã có một phẩm chất của
ngạc nhiên, của bối rối Và khi sự bối rối ấy trở nên ổn định qua thiền
quán, chúng ta thâm nhập một cách tăng trưởng vào trong thế giới huyền
bí, nhiệm mầu trong một cảm nhận và không chứa đựng những tư tưởng và
nhận thức hạn hẹp.
Nhưng điều này không phải là nơi chấm dứt sự thực tập. Đây mới chỉ
là phân nửa của công trình. Những gì chúng ta cũng khám phá trong một
không gian mở, trong kinh nghiệm huyền bí này của vô ngã, là suối nguồn
của sáng tạo và tiềm lực. Trong Đại Thừa Phật Giáo, một cách đặc thù,
Đức Phật không chỉ là người nào đấy có những kinh nghiệm huyền bí diệu
kỳ, tâm thức giải thoát, mà cũng là nhân vật này người biểu hiện của tự
tại và từ bi cùng thể hiện trong thế giới qua hóa thân (nirmanakaya).
Tôi thích nghĩ về sự giác ngộ của Đức Phật dưới cội cây Bồ đề chứ
không phải một loại hấp dẫn huyền ảo nào đấy, nhưng như một thời khắc
hoàn toàn sốc, hoàn toàn sửng sốt. Neils Bohr[7]
một lần đã nói về cơ học lượng tử: “Nếu bạn không bị sốc bởi thuyết
lượng tử, thế thì bạn không thấu hiểu nó.” Tôi nghĩ chúng ta cũng có
thể nói giống như vậy về tính không: Nếu bạn không bị sốc bởi tính
không, thế thì bạn đã không thông hiểu nó.
Sự giác ngộ của Đức Phật được tiếp theo bởi một thời điểm kỳ lạ nơi
mà, theo truyền thống, Ngài đã do dự trong sáu tuần lễ trước khi được
một vị trời khuyến thỉnh, hãy đi vào thế gian và làm gì đấy. Tiến
trình này tương tự trong nhiều khía cạnh của quá trình sáng tạo nghệ
thuật. Khi đối diện với trách vụ tương hợp với quan kiến trực giác sâu
xa trong ngôn từ, kiên quyết và thánh thiện, một người có thể kinh
nghiệm cùng sự rung động mãnh liệt mà người ấy tìm ra trong thiền quán
khi tâm thức vô cùng tĩnh lặng nhưng cùng lúc ấy cực kỳ chống lại việc
theo đuổi bất cứ sự khám phá sâu xa hơn nào. Vào lúc này, thiền giả
thường sa ngã vào trong ý nghĩ kỳ quặc và mộng tưởng và hôn trầm, mà
chúng ta chắc chắn quen thuộc. Người viết (một người khác của tôi)
thường có một sự thúc đẩy khẩn cấp để sửa sang cho gọn gàng bàn giấy của
ông ta. Nhưng nó là cùng loại với thoái thác; nó là cùng loại với do
dự trong việc đối diện với những gì đúng hơn là huy hoàng.
Bây giờ đây chúng ta đứng ngay ngưỡng cửa của việc tưởng tượng.
Chúng ta đã đòi hỏi để hình dung điều gì đấy mà hoàn toàn chưa từng nghĩ
đến trong cách ấy trước đây. Sự chân thành của Đức Phật ở trong quan
niệm của Ngài một cách chính xác. Tôi không nghĩ rằng khi Ngài trải
nghiệm giác ngộ, đột nhiên Bốn Chân Lý Cao Quý xuất hiện — 1, 2, 3, 4 —
trong từ ngữ như pháo bông trên bầu trời, hay bất cứ điều gì như thế.
Đúng hơn sự giác ngộ của Ngài đã không trở nên thật sự cho đến khi Ngài
phải ấp úng nói ra cho những người đệ tử đầu tiên của Ngài, năm vị sa
môn, trong vườn nai ở Lộc Uyển. Kiểu mẫu tỉnh thức của Đại Thừa Phật
Giáo là một tiến trình mà có lẽ không bao giờ hoàn thành. Quy trình ăn
khớp của Pháp Bảo tiếp diễn và phù hợp với những nhu cầu khác nhau của
những hoàn cảnh lịch sử mà nó chạm trán. Chúng ta có thể đọc toàn bộ
lịch sử của Đạo Phật, từ thời điểm Đức Phật giác ngộ cho đến bây giờ,
như một tiến trình của việc tìm kiếm để làm nên một cung cách đáp ứng cả
một cách thông tuệ lẫn từ bi đến những hoàn cảnh cụ thể.
Tất cả chúng tôi đã trải nghiệm về những gì có nghĩa là tài tháo vát
và sáng tạo điều gì đấy. Ở Đại Hàn, sau khi ngồi ba tháng trong thiền
đường, chiến đấu với một công án, chúng tôi rồi thì sẽ có ba tháng khi
chúng tôi sẽ ngồi ít hơn, không có một thời khóa cụ thể, và tôi có thể
viết. Nó làm cho tôi phải ấn tượng rất sinh động một ngày nọ, khi tôi
đang ngồi ở bàn viết của tôi trước một trang giấy trắng, chuẩn bị cho
chính tôi để biến thành chữ nghĩa của những gì đã chưa từng biến thành
ngôn từ để thâm nhập một khuôn mẫu rất tương tự của tâm thức đến việc
ngồi trên bồ đoàn trong một thiền đường, hỏi: “Cái gì đây?” Tiến trình
sáng tạo dường như rất có thể so sánh với quy trình thiền quán. Sự tỉnh
thức chỉ hoàn thành — trong cùng cách mà một tác phẩm nghệ thuật cuối
cùng hoàn tất — khi nó tìm thấy một thành ngữ, một hình thức, diễn dịch
kinh nghiệm ấy trong một cung cách làm cho nó có thể tới được với những
người khác. Điều ấy một lần nữa là sự quân bình giữa tuệ trí và từ
bi. Tiến trình sáng tạo biểu hiện của Giáo Pháp không chỉ là một câu
hỏi sao lục lại điều gì đấy khắc chạm ở nơi nào đấy trong chỗ riêng tư
của tâm hồn tôi. Tiến trình thông hiểu được hình thành qua sự chạm trán
với một người khác, với thế gian. Quý vị chắc chắn đều đã có kinh
nghiệm của ai đấy đến với quý vị trong một tình trạng sầu khổ và thốt ra
những rắc rối của họ, và quý vị đột nhiên tự thấy mình nói những gì mà
quý vị hoàn toàn không hay mình biết. Tiền trình tỉnh thức là một sự
đánh giá và nối kết với khả năng ấy để đáp ứng trong những cung cách
chân thật đến khổ đau của người khác. Con mắt của tâm thức là cây cầu
giữa kinh nghiệm quán chiếu và nổi thống khổ của thế gian. Bằng sự đánh
giá của đạo nhãn, chúng ta coi trọng khả năng của mỗi người, mỗi cộng
đồng để hình dung và xây dựng chính chúng một lần nữa.
Việc thực hành Phật Pháp giống như sáng tạo nên một tác phẩm nghệ
thuật. Năm uẩn của chúng ta — thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy,
thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập
thành một vị bồ tát, hay bất cứ thứ gì mà chúng ta mong muốn. Chính
đời sống hằng ngày của chúng ta trở thành vật liệu sống cho khả năng
sáng tạo của chúng ta.
Trong thế giới giả tạm này, Đạo Phật chạm trán một nền văn hóa mà nó
đặt một giá trị tích cực trên năng lực sự sáng tạo và tài tháo vát của
mỗi cá nhân. Điều hấp dẫn là trong hầu hết những truyền thống Phật
Giáo, những thứ này không được khuyến khích một cách mạnh mẽ, hay, nếu
có, thì thường chỉ trong những cơ cấu nghi thức cao cấp. Tôi thích nghĩ
sự thực hành Phật Pháp ngày nay như việc mạo hiểm vào trong thế giới
của sáng tạo tư tưởng, một thứ mà trong mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng tìm
kiếm để biểu lộ và ăn khớp với quan kiến của họ trong dạng thức đặc thù
của một cơ cấu, và một kinh nghiệm ngày càng nhiều hơn được thừa nhận,
được sở hữu bởi những người bình thường trong những cộng đồng bình
thường.
Dĩ nhiên, có những nguy hiểm ở đây. Nhưng những điều này mới mẻ một
cách hiếm hoi. Một cách lịch sử, Đạo Phật luôn luôn phải tìm ra những
cung cách để đáp ứng một cách có hiệu quả đến hiểm họa trở thành quá
tiếp biến về văn hoá, của việc trở thành quá tiếp thu vào trong sự thừa
nhận của nền văn hóa chủ nhà. Một cách chắc chắn một hiểm họa như vậy
hiện hữu ở đây, thế giới phương Tây: thí dụ, Đạo Phật có thể có khuynh
hướng để trở thành một loại năng lực tâm lý trị liệu Nhưng có một hiểm
họa tương đồng của việc Đạo Phật nắm giữ một cách quá mãnh liệt vào đặc
tính Á châu của nó và duy trì một sự hấp dẫn thứ yếu trong một ít những
kẻ lập dị. Thế nào đấy, chúng ta phải tìm ra một con đường trung đạo
giữa hai cực này, và đây là một thử thách mà sẽ không phải được thực
hiện bởi những viện hàn lâm hay những học giả Phật Giáo; nó là một thử
thách mà mỗi chúng ta được đòi hỏi để gặp gở trong sự thực tập của chính
mỗi chúng ta từ ngày này sang ngày nọ.
Đạo Phật không phải là điều gì đấy siêu trần trên chín tầng mây được
chuyển tiếp từ Á châu một cách mầu nhiệm và rồi một ngày nào đấy xuất
hiện ở phương Tây. Những đầu đề của các quyển sách như Sự Tỉnh Thức của
Phương Tây có thể khuyến nghị rằng Đạo Phật là một thứ mà có khả năng
gần như huyền bí này. Nhưng điều gì được trao truyền? Việc duy nhất
được trao truyền là sự thông hiểu và cung cách sống của những người thực
hành nó, những người như quý vị và tôi. Không ai sẽ làm nó cho chúng
ta. Trách nhiệm căn bản là ở chính chúng ta.
Chúng ta cần đặc biệt thận trọng về sự tự phụ của xã hội hiện đại
ngày nay là điều cho rằng do bởi sự giáo dục rộng rãi, lối vào dễ dàng
đến thông tin của chúng ta, và sự nổi bật đột ngột của sách vở thuận
tiện sẳn sàng về Đạo Phật, rằng điều này thế nào ấy sẽ làm cho tốc độ
của tiến trình nhanh lên; rằng chúng ta sẽ đi đến một nền Phật Giáo Hoa
Kỳ hay một Đạo Phật phương Tây hay bất cứ Đạo Phật gì nhanh chóng hơn
trong quá khứ. Tôi nghĩ đây là một sự thấu hiểu sai lầm về tiến hóa và
thay đổi văn hóa. Một nền văn hóa như Phật Giáo là điều gì đấy hữu cơ.
Thí dụ,, chúng ta có thể có một sự mở mang vô cùng của thấu hiểu khoa
học về những cây sồi, mà tự tri thức ấy, và lối tiếp xúc của chúng ta
đến thông tin ấy, sẽ làm gia tăng sự lớn mạnh của cây sồi. Một cách
lịch sử, chúng ta có thể thấy rằng Đạo Phật chưa bao giờ xoay sở để bén
rể trong bất cứ một nền văn hóa nào cho đến một vài thế hệ kế tiếp.
Đây là một sự nhắc nhở nghiêm túc cho những người phương Tây có tính
chất cá nhân chủ nghĩa những người tự hào về năng lực của họ về việc
giải quyết những vấn nạn một cách nhanh chóng. Chúng ta thích nghĩ rằng
một tia lóe sáng rực nào đấy chẳng chóng thì chầy sẽ suy nghĩ ra những
gì chúng ta cần phải hoàn tất để tạo nên một nền Đạo Phật Âu Mỹ, đúng
hơn là nhấn mạnh những việc làm của chính chúng ta về nó, sự trau dồi
của chính chúng ta về tuệ trí và từ bì, cốt lõi của Đạo Phật. Có lẽ
chúng ta đã thật sự tin tưởng trong sự thực hành và tìm thấy sự khiêm
cung để chấp nhận rằng chúng ta chắc chắn không sống để thấy một nền
Phật Giáo phương Tây. Có lẽ con cái chúng ta sẽ, hay cháu chắt chúng
ta. Chúng ta cần nhận biết rằng chúng ta đang sống trong một thời gian
của sự chuyển tiếp, một thời điểm mà Phật Pháp đang khủng hoảng ở Á
châu, và tuy thế lại chưa thật sự tìm thấy dấu chân của nó ở đây. Thật
là một thời kỳ hấp dẫn để sống: người ta trong điều gì đấy là đang sáng
tạo, và chúng ta là những người tham dự trong sự sáng tạo ấy.
VỀ STEPHEN BATCHELOR
Stephen Batchelor là một mục sư Phật Giáo đương đại
và là nhà văn, được biết đến nhiều nhất vì chủ trương thế tục hay sự
tiếp cận bất khả tri với Đạo Phật. Stephen xem Phật Giáo là một nền văn
hóa tiến hóa liên tục về tỉnh thức hơn là một hệ thống tôn giáo căn cứ
trên những giáo điều và niềm tin không thay đổi. Đặc biệt, ông xem
những giáo lý về nghiệp báo và tái sinh là những đặc trưng của nền văn
minh Ấn Độ cổ đại và không phải là nền tảng của những gì Đức Phật thuyết
giáo. Đạo Phật đã tồn tại trong 2.500 năm qua do bởi năng lực của nó
để tự phát minh lại trong sự phù hợp với những nhu cầu của những xã hội
khác nhau ở Á châu với điều nó tương tác một cách sáng tạo qua suốt quá
trình lịch sử của nó. Khi Đạo Phật chạm trán với tính hiện đại, nó đi
vào một chương mới quan trọng trong sự phát triển của nó. Qua những tác
phẩm, dịch phẩm và giảng dạy, Stephen tiến hành một sự khám phá quan
yếu về vai trò của Đạo Phật trong thế giới hiện đại, là điều đã làm cho
ông bị lên án như một kẻ dị giáo cũng như được ca tụng như một nhà cải
cách.
Stephen sinh ra ở Dundee, Tô Cách Lan, Anh Quốc, vào ngày 7 tháng Tư
năm 1953. Ông lớn lên trong một môi trường nhân bản với mẹ là Phyllis
(sinh năm 1913), và em trai là David (sinh năm 1955) ở Watford, Tây Bắc
Luân Đôn. Sau khi hoàn tất chương trình giáo dục tại Trường Ngữ Pháp
Watford, ông đã du hành qua Ấn Độ năm 1972, vào tuổi mười tám.
Ông đã ở lại Dharamsala, thủ đô lưu vong của Đức Đạt Lai Lạt Ma, và
học hỏi ở Thư viện Hoạt Động và Lưu Trử Tây Tạng với Thượng tọa Geshe
Ngawang Dhargyey. Ông đã được thọ giới sa di năm 1974. Năm 1975 ông
rời Ấn Độ, nhằm để học hỏi triết lý và giáo lý Đạo Phật dưới sự hướng
dẫn của Thượng tọa Geshe Rabten, đầu tiên tại Tu Học Viện Tây Tạng ở
Rikon, Thụy Sĩ, rồi thì ở Le Mont Pelerin, Thụy Sĩ, nơi Gesh Rabten sáng
lập chùa Tharpa Choeling (hiện nay là Rabten Choeling). Năm tiếp theo
ông được thọ đại giới của một tu sĩ Phật Giáo. Năm 1979, ông dời đến
Đức Quốc như một thông dịch viên cho Thượng tọa Geshe Thubten Ngawang
tại Viện Tây Tạng, Hamburg. Tháng Tư năm 1981, ông du hành đến Tu viện
Songgwangsa ở Nam Hàn để tu tập về Thiền Tông Phật Giáo dưới sự hướng
dẫn của Thượng tọa Kusan Sunim. Ông ở lại Đại Hàn cho đến mùa thu năm
1984, khi ông thực hiện một chuyến hành hương đến Nhật Bản, Trung Hoa,
và Tây Tạng.
Ông hoàn tục vào tháng Hai năm 1985 và kết hôn với Martine Fages ở
Hồng Công trước khi trở lại Anh Quốc và tham gia Cộng đồng Bắc Sharpham ở
Totnes, Devon. Trong mười lăm năm sống tại Sharpham, ông trở thành
đồng giám đốc của Tổ chức Sharpham (1992) và đồng sáng lập của Đại học Cộng đồng Sharpham vì Sự Học hỏi Phật Pháp và Nhu cầu Đương đại (1996).
Trong suốt thời gian này ông làm việc như một tuyên úy Phật Giáo của
nhà tù HMP Channings Wood . Từ năm 1990, ông đã là Giáo thọ hướng dẫn
tại trung tâm thiền quán Gaia House ở Devon và từ năm 1992 là chủ bút cộng sự củaTricycle: The Buddhist Review .
Vào tháng Tám năm 2000, ông và Martine di chuyển sang Aquitaine, Pháp
Quốc, nơi họ sống trong một làng nhỏ gần Bordeaus với con mèo Zoë.
Trong khi sống tại nhà ông theo đuổi công việc của mình như một học giả,
nhà văn và nghệ sĩ. Mỗi năm vài tháng, ông du lịch khắp thế giới để
hướng dẫn thiền quán và giảng dạy Phật Pháp. Ông là dịch giả và tác giả
của nhiều quyển sách cũng như nhiều đề tài khác nhau về Đạo Phật kể cả
quyển sách bestselling Đạo Phật Không Có Niềm Tin (Buddhism Without Beliefs - Riverhead 1997). Tác phẩm gần đây nhất được xuất bản là Sống với Điều Khủng Khiếp: Thiền Quán trên vấn đề Tốt và Xấu (Living with the Devil: A Meditation on Good and Evil - Riverhead, 2004). Quyển sách Thú Nhận của một Phật tử Vô Thần (Confession of a Buddhist Atheist – Spiegel&Grau/Random House) được xuất bản vào tháng Ba năm 2010.
Nguyên tác: The Agnostic Buddhist: A Secular Vision of Dharma Practice
Ẩn Tâm Lộ ngày 25/06/2011
http://www.stephenbatchelor.org/online%20articles/agnostic%20buddhist.htm
[1] agnostic: người theo thuyết bất khả tri (không thể biết). Trong Duy Thức Học Yếu luận
có câu: “Hiện tượng vạn vật vô tri gọi là sở biến, khái niệm nhận thức
tư duy được gọi là năng biến. Năng biến, sở biến đều là sản phẩm cơ bản,
sản phẩm hạt nhân hiện hữu một cách tự nhiên của Nhất thiết chủng thức.
Sự hiện hữu này, Duy Thức Học gọi là “Bất khả tri”!
[2]Arthur Schopenhauer (22 tháng 2 1788 - 21 tháng 9 1860) là một nhà triết học người Đức, nổi tiếng nhất với tác phẩm “The World as Will and Representation” (Thế giới như là ý chí và biểu tượng).
[3] Đại Ðức Ananda Metteyya,
tục danh là Charles Henry Allan Bennett, sinh ngày 8 tháng 12 năm 1872
tại Luân Ðôn (Anh Quốc). Thân sinh ông là một kỹ sư điện tử, nhưng ông
lại thích học môn hóa học. Ngay từ nhỏ, ông đã chối bỏ không chịu theo
đạo Thiên Chúa là tôn giáo mà thân mẫu ông rất ngưỡng mộ, và tự tuyên bố
mình như người không bao giờ có thể tin tưởng vào những điều phi lý,
phản khoa học
[4] 63. Tiểu kinh Màlunkyà, do Đại trưởng lão Minh-Châu dịch.
[5]Không biết tác giả có muốn nói đến câu trả lời của Tổ sư Đạt Ma với Lương Võ Đế hay không:
- Lương Võ Đế: Vậy ai đứng trước mặt trẫm?
- Tổ sư Đạt Ma: Không biết.
[6] “the open dimension of being,”
[7] Niels (Henrik David) Bohr [nels ˈb̥oɐ̯ˀ] (7 tháng 10 năm 1885 – 18 tháng 11 năm 1962) là một nhà vật lý học người Đan Mạch. Ông đã nhận giải Nobel vật lý năm 1922 vì những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu cấu trúc của nguyên tử và trong cơ học lượng tử.
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-85_4-12476_5-50_6-1_17-33_14-1_15-1/
The Agnostic Buddhist:
A Secular Vision of Dharma Practice
An edited version of a talk given at the symposium “American
Buddhism Today” to celebrate the 30th anniversary of the Rochester Zen
Center, Rochester, New York, June 22, 1996.
Something I’ve noticed over the years is how, although we may start
out at a young age rebelling against Christianity or our Jewishness and
then finding in Buddhism a vindication for our rebelliousness, as we
grow older, we begin in a strange way to recover our past. I was not
brought up a Christian. In fact, my grandparents on my mother’s side
formerly broke with the Christian Church, even though my
great-grandfather was a Wesleyan minister. Under my mother’s influence I
grew up in an anti-Church environment, one which might loosely be
termed humanistic. Now I find that I am coming back more and more to
that culture in which I grew up. Although I admire many of
Christianity’s ethical values, I have no natural sympathy with the
Christian tradition. But I do find myself increasingly sympathetic to my
own childhood experience as a humanist, a secularist, an agnostic. I’m
even beginning to reconsider positively what it means to be a
materialist — a term that has a rather bad press in Buddhism.
The term “agnostic” is the one I identify with the closest. Yet few
people realise that it was only coined in the late 1880′s by the
biologist Thomas Huxley. And it was coined as a joke. Huxley belonged to
a small philosophical circle in London in which he increasingly felt
out of place. While everybody else in the group could readily identify
themselves as a Christian or a Rationalist or a Schopenhaurian, or
whatever, he felt perplexed that no such term seemed applicable to him.
So he decided to call himself an “agnostic” in order that he too could
“have a tail like all the other foxes.”
Huxley began to develop the idea. He saw agnosticism as demanding as
any moral, philosophical, or religious creed. But he refused to see it
as a creed in the traditional sense of the word, and saw it far more as a
method. The method he had in mind is broadly that which underpins
scientific inquiry. It means, on the one hand, taking one’s reason as
far as it will go and, on the other, not accepting anything as true
unless it is somehow demonstrable. Here there are very clear parallels
with the Buddhist tradition. Although we may not find it so much in Zen,
in the Indo-Tibetan tradition there is a strong emphasis on rational
inquiry. I spent many years as a young monk not working on koans but
studying formal logic and epistemology with Tibetan lamas. It is a very
strong, rational tradition and I’m immensely grateful to have had that
training. All traditions of Buddhism agree that one should not believe
something simply for the sake of believing it, but only if it can
somehow be demonstrated as true, if it can be realised in some practical
way.
Huxley even described his view as “the agnostic faith,” thus giving
it the kind of seriousness that one might otherwise expect only amongst
religious people. And within fifteen years of Huxley coining the term,
“agnosticism” was already being linked with Buddhism. It was first
applied by a man called Allan Bennett who became a bhikkhu in Burma in
1901 with the name Ananda Metteyya. Bennett was the first Englishman to
be ordained as a Buddhist and the first European who tried to articulate
his understanding of the Dharma as a practising Buddhist rather than
merely a scholar of Buddhism. In a magazine he issued in Rangoon in
1905, he spoke of Buddhism as “exactly coincidental in its fundamental
ideas with the modern agnostic philosophy of the West.”
At the beginning of the century, when Westerners were only just
starting to embrace the teachings of the Buddha, why would this young
English monk have regarded Buddhism as agnostic? I suspect that one of
the key sources may have been this famous passage from the Cula Malunkya
Sutta, the sixty-third discourse in the Majjhima Nikaya of the Pali
canon. The Buddha says: “Suppose Malunkyaputta, a man were wounded by an
arrow thickly smeared with poison, and his friends and companions
brought a surgeon to treat him. The man would say, ‘I will not let the
surgeon pull out the arrow until I know the name and clan of the man who
wounded me; whether the bow that wounded me was a long bow or a cross
bow; whether the arrow that wounded me was hoof-tipped or curved or
barbed.’ All this would still not be known to that man, and meanwhile he
would die. So too, Malunkyaputta, if anyone should say, ‘I will not
lead the noble life under the Buddha until the Buddha declares to me
whether the world is eternal or not eternal; finite or infinite; whether
the soul is the same as or different from the body; whether or not an
awakened one continues or ceases to exist after death,’ that would still
remain undeclared by the Buddha, and meanwhile that person would die.”
This passage shows quite clearly both the pragmatic nature of the
Buddha’s teaching, as well as its agnostic bent.
It is important to distinguish between those questions that are
addressed by the core teachings of the Buddha, and those which are not
really of central concern. I was listening on the radio not long ago in
England to a discussion about religious belief. All of the participants
were engaged in a heated discussion about the possibility of miracles.
It is generally assumed that being a religious person entails believing
certain things about the nature of oneself and reality in general that
are beyond the reach of reason and empirical verification. What happened
before birth, what will happen after death, the nature of the soul and
its relation to the body: these are first and foremost religious
questions. And the Buddha was not interested in them. But if we look at
Buddhism historically, we’ll see that it has continuously tended to lose
this agnostic dimension through becoming institutionalised as a
religion, with all of the usual dogmatic belief systems that religions
tend to have. So, ironically, if you were to go to many Asian countries
today, you would find that the monks and priests who control the
institutional bodies of Buddhism would have quite clear views on whether
the world is eternal or not, what happens to the Buddha after death,
the status of the mind in relation to the body, and so on.
This has led to Buddhism as it comes into the West being
automatically regarded as a religion. The very term “Buddhism,” a word
for which there is no exact equivalent in an Asian language, is largely
an invention of Western scholars. It suggests a creed to be lined up
alongside other creeds; another set of beliefs about the nature of
reality that we cannot know by other means than through faith. This
assumption, though, tends to distort or obscure the encounter of the
Dharma with secular agnostic culture. And another problem is that today
the very force of the term “agnosticism” has been lost. If somebody says
they’re an agnostic, although they know it means that one claims not to
know certain things, it usually goes hand in glove with an attitude
that seems not to care about such things. “I don’t know what happens
after death” becomes equivalent to: “I don’t care; I don’t really want
to know; I don’t even want to think about it.” Modern agnosticism has
lost the confidence that it may have had at the time of Huxley, and
lapsed into scepticism. Buddhism too has lost that critical edge that we
find in the early Pali discourses, and, of course, in the Zen koans.
Very often Buddhism as an institution has tended to lapse into
religiosity.
So, what would an agnostic Buddhist be like today? How would we even
start to think about such a stance? Firstly, I would suggest that an
agnostic Buddhist would not regard the Dharma or the teachings of the
Buddha as a source which would provide answers to questions of where we
are going, where we are coming from, what is the nature of the universe,
and so on. In this sense, an agnostic Buddhist would not be a believer
with claims to revealed information about supernatural or paranormal
phenomena and in this sense would not be religious. I’ve recently
started saying to myself: “I’m not a religious person,” and finding that
to be strangely liberating. You don’t have to be a religious person in
order to practice the Dharma.
Secondly, an agnostic Buddhist would not look to the Dharma for
metaphors of consolation. This is another great trait of religions: they
provide consolation in the face of birth and death; they offer images
of a better afterlife; they offer the kind of security that can be
achieved through an act of faith. I’m not interested in that. The
Buddha’s teachings are confrontative; they’re about truth-telling, not
about painting some pretty picture of life elsewhere. They’re saying:
“Look, existence is painful.” This is what is distinctive about the
Buddhist attitude: it starts not from the promise of salvation, but from
valuing that sense of existential anguish we tend either to ignore,
deny or avoid through distractions.
Buddhism is often misrepresented as something nihilistic or
life-denying. This fails to recognise that the project of the Four Noble
Truths is about resolving the dilemma of anguish, not about indulging
human suffering. Again it’s a praxis; it’s something we can do. It
starts with understanding the reality of anguish and uncertainty, and
then applying a set of practices that work towards a resolution. But
this kind of agnosticism is not based on disinterest; it’s not saying,
“I just don’t care about these great matters of birth and death.” It is a
passionate recognition that I do not know. I really do not know where I
came from; I do not know where I’m going. And that “don’t know” is a
very different order of “don’t know” from the scepticism and fear of a
superficial agnosticism.
This process of stripping away consolatory illusions by holding true
to this agnostic not-knowing, leads to what we might call “deep
agnosticism.” I like to think of Buddhism as the practice of deep
agnosticism. This both leads away from the superficiality of
contemporary Western agnosticism, and begins to tap a dimension that
seems essential to the heart of Dharma practice. To illustrate this,
here is a koan; case forty-one from The Gateless Gate:
Bodhidharma sat facing the wall. The Second Patriarch, standing in
the snow, cut off his arm and said, “Your disciple’s mind is not yet at
peace. I beg you, master, give it rest.” Bodhidharma said, “Bring me
your mind and I will put it to rest for you.” The Second Patriarch
replied, “I have searched for the mind but have never been able to find
it.” Bodhidharma said, “I’ve finished putting it to rest for you.”
This deep “not-knowing,” in this case the Second Patriarch’s
inability to find his anguished mind, takes the notion of agnosticism
down to another depth. One might call it a contemplative depth. Such
deep agnostic metaphors are likewise found in such terms as wu hsin (no
mind), and wu nien (no thought), as well as in the more popular “Don’t
Know Mind” of the Korean Zen Master, Seung Sahn.
Another striking feature of this koan is its similarity with the
process of understanding emptiness as found in the Madhyamaka philosophy
of India and Tibet. “Emptiness” is a singularly unappetising term. I
don’t think it was ever meant to be attractive. Herbert Guenther once
translated it as “the open dimension of being,” which sounds a lot more
appealing than “emptiness.” “Transparency” was a term I played with for a
while, which also makes emptiness sound more palatable. Yet we have to
remember that even two thousand years ago Nagarjuna was having to defend
himself against the nihilistic implications of emptiness. Many of the
chapters in his philosophical works start with someone objecting: “This
emptiness is a terrible idea. It undermines all grounds for morality. It
undermines everything the Buddha was speaking about.” Clearly the word
did not have a positive ring back then either. I suspect that it might
have been used quite consciously as an unappealing term, which cuts
through the whole fantasy of consolation that one might expect a
religion to provide. Perhaps we need to recover this cutting-edge of
emptiness, its unappealing aspect.
Let’s go back to Bodhidharma and his disciple, the Second Patriarch.
It seems as though the pain of the disciple’s dilemma was so extreme
that he was prepared to cut off his arm to resolve it. This pain was
centred around some kind of nugget of anguish within his own mind, his
most intimate sense of who he was. Yet by inquiring deeply into this
painful, isolated self-identity, he could find nothing he could
ultimately grasp hold of and say: “That’s my mind. There it is. I’ve got
it. I’ve defined it. I’ve realised it.” Instead, he discovered the
ultimate unfindability of the mind, and by implication the ultimate
unfindability of self and things. And this gives us an important clue to
understanding the notions of emptiness and “no mind.” They do not mean
that there is literally no mind; they’re saying that if you try to
understand the nature of anything in the deepest sense, you will not be
able to arrive at any fixed view that defines it as this or that. The
Dalai Lama uses a quaint expression in colloquial Tibetan: dzugu dzug-sa
mindoo, which means literally: “there is no finger-pointing-place.” Or
as we would say: “there’s nothing you can put your finger on.” Again
this does not imply that the thing in question does not exist at all. It
simply exposes the fallacy of the deeply-felt, almost instinctive
assumption that our self, the mind or anything else must be secured in a
permanent, transcendental basis. Yet the uniqueness of a person’s mind
or identity, the uniqueness of a flower that’s growing in the garden
outside, does not require any kind of transcendent basis that’s peculiar
to that thing. Emptiness indicates how everything that comes about does
so through an unrepeatable matrix of contingencies, conditions, causes,
as well as conceptual, linguistic and cultural frameworks. Everything
arises out of an extraordinarily complex combination of transient events
that culminate, in this particular instance, in my saying these words
to you.
Now, whether we follow the Indo-Tibetan analytical approach or the
Zen approach of asking a koan like “What is this?,” such meditative
inquiry leads to a mind that becomes more still and clear. But
paradoxically this does not mean that things then become more clear-cut,
that you reach some final understanding of who you are or of what makes
the universe tick. Because, at the same time as such things become more
vivid and clear, they also become more baffling. One encounters, as it
were, the sheer mystery of things. A deep agnosticism would be one
founded on this kind of unknowing: the acknowledgement that, in terms of
what life really is, I really do not know. And in that unknowing there
is already a quality of questioning, of perplexity. And as that
perplexity becomes stabilised through meditation, one enters
increasingly into a world that is mysterious, magical in a sense, and
not containable by narrow ideas and concepts.
But this is not where the practice ends. This is only half the
project. What we also discover in this open space, in this mysterious
experience of non-self, are the wellsprings of creativity and
imagination. In Mahayana Buddhism particularly the Buddha is not just
someone who had a wonderful mystical experience, whose mind is freed,
but also this being who spontaneously and compassionately manifests and
is embodied in the world through the nirmanakaya (“transformation
body”).
I like to think of the Buddha’s awakening under the Bodhi tree not as
some kind of transcendental absorption, but as a moment of total shock.
Neils Bohr once said about quantum mechanics: “If you’re not shocked by
quantum theory, then you don’t understand it.” I think we could say the
same about emptiness: If you’re not shocked by emptiness, then you
haven’t understood it.
The Buddha’s awakening is followed by this strange period where,
according to tradition, he hesitates for about six weeks before being
prompted, by a god in this case, to go out into the world and do
something. This process is similar in many respects to the process of
artistic creation. When faced with the task of articulating a deep
intuitive vision in words, clay or paint, one might experience that same
intense trepidation that one finds in meditation when the mind is very
still but at the same time tremendously resistant about pursuing the
inquiry any further. At this point the meditator usually lapses into
fantasy and daydreams and drowsiness, which you’re probably familiar
with. The writer (one of my other personae) usually has an urgent
compulsion to tidy up his desk. But it’s the same kind of evasion; it’s
the same kind of hesitation in face of what is rather awesome.
For here we stand on the threshold of the imagination. We are
challenged to imagine something that has never quite been thought of in
that way before. The Buddha’s genius lies precisely in his imagination. I
don’t believe that when he experienced awakening, suddenly the Four
Noble Truths appeared — 1, 2, 3, 4 — in words of fire in the sky, or
anything like that. Rather, his awakening did not become real until he
had to stammer it out to his first disciples, the five ascetics, in the
deer-park in Sarnath. The model of awakening in Mahayana Buddhism is
that of a process which is perhaps never completed. The process of
articulating the Dharma goes on and on according to the needs of the
different historical situations that it encounters. We could read the
whole history of Buddhism, from the moment of the Buddha’s awakening
until now, as a process of seeking to imagine a way to respond both
wisely and compassionately to the situation at hand.
All of us have experiences of what it means to imagine and create
something. In Korea, after sitting for three months in the zendo,
struggling with a koan, we would then have three months when we would
sit much less, without a formal schedule, and I would write. It struck
me very forcibly one day, as I was sitting at my desk in front of a
blank sheet of paper, that preparing myself to put into words what had
not yet been put into words was to enter a very similar frame of mind to
that of sitting on a cushion in a zendo, asking: “What is this?” The
creative process seemed very comparable to the meditative process.
Awakening is only complete — in the same way that a work of art is only
complete — when it finds an expression, a form, that translates that
experience in a way that makes it accessible to others. That again is
the balance between wisdom and compassion. The creative process of
expressing the Dharma is not just a question of duplicating in words
something etched somewhere in the privacy of my soul. The living process
of understanding is formed through the encounter with another person,
with the world. You’ve probably all had the experience of someone coming
to you in a state of distress and blurting out their problems, and you
suddenly find yourself saying things that you were quite unaware you
knew. The process of awakening is one of valuing and connecting with
that capacity to respond in authentic ways to the suffering of others.
The imagination is the bridge between contemplative experience and the
anguish of the world. By valuing imagination, we value the capacity of
each person, each community, to imagine and create themselves anew.
Dharma practice is like creating a work of art. Our five skandhas —
body, feeling, perceptions, impulses, consciousness: they’re the clay
that we mould and form through our practice into a bodhisattva, or
whatever we aspire to. Our very lives become the raw material of our
imagination.
In the contemporary world Buddhism encounters a culture that places a
positive value on the power of each individual’s creativity and
imagination. It’s interesting that in most Buddhist traditions these
things are not strongly encouraged, or, if they are, it’s usually only
within highly formalised settings. I like to think of Dharma practice
today as venturing into a world of imagination, one in which each
individual, each community, seeks to express and to articulate their
vision in terms of the particular needs of their own situation. Buddhism
would then become less and less the preserve of an institution, and
more and more an experience that is owned by ordinary people in ordinary
communities.
Of course, there are dangers here. But these are hardly new.
Historically, Buddhism has always had to find ways of responding
effectively to the danger of becoming too acculturated, of becoming too
absorbed into the assumptions of the host culture. Certainly such a
danger exists here in the West: Buddhism might, for example, tend to
become a kind of souped-up psychotherapy. But there’s the equal danger
of Buddhism holding on too fiercely to its Asian identity and remaining a
marginal interest amongst a few eccentrics. Somehow we have to find a
middle way between these two poles, and this is a challenge which is not
going to be worked out by academics or Buddhist scholars; it’s a
challenge that each of us is asked to meet in our own practice from day
to day.
Buddhism is not some ethereal thing that is magically transferred
from Asia and then one day appears in the West. Titles of books like The
Awakening of the West might suggest that Buddhism is a thing that has
this almost mystical capacity. But what is it that is transmitted? The
only thing that is transmitted is the understanding and the way of life
of those people who practice it, people like you and me. No one else is
going to do it for us. The responsibility is ultimately our own.
We need to be particularly wary today of the modern conceit which
assumes that because of our broad education, our easy access to
information, and the sudden emergence of a readily available literature
on Buddhism, that this is somehow going to speed the process up; that
we’ll arrive at an American Buddhism or a Western Buddhism or a whatever
Buddhism much more quickly than in the past. I think this is a serious
misreading of cultural transition and change. A culture like Buddhism is
something organic.
For example, we may have a great deal of scientific understanding
about oak trees, but that knowledge in itself, and our access to that
information, is not going to speed up the growth of oak trees.
Historically, we can see that Buddhism has never managed to root itself
in any culture until several generations have passed. This is a sobering
reminder for individualistic Westerners who are proud of their capacity
to solve problems quickly. We prefer to think that some bright spark
will sooner or later figure out what needs to be done to create a
Western Buddhism, rather than emphasising our own doing of it, our own
cultivation of the wisdom and compassion that are at the core of
Buddhism. Perhaps we have really to trust in the practice and find the
humility to accept that we will probably not live to see a Western
Buddhism. Maybe our children will, or our children’s children. We need
to acknowledge that we live in a time of transition, a time in which the
Dharma is in crisis in Asia, and yet has not really found its feet
here. It’s an exciting time to be in: one in which something is being
created, and we are the participants in that creation.
http://www.stephenbatchelor.org/online%20articles/agnostic%20buddhist.htm