Như Hải (NH): Thưa thầy, có mối liên hệ nào giữa đạo Phật và kinh doanh hay không ạ?
Hòa thượng Thích Viên Minh
(HT.TVM): Cần phải biết doanh nhân tìm đến đạo Phật nhằm mục đích gì?
Có thể có doanh nhân làm ăn thất bại, nên tìm đến đạo Phật để tìm cách
làm ăn thành công hơn. Thật ra, Phật giáo không loại trừ điều này, vì là
nhu cầu sinh hoạt của loài người (kinh doanh tạo lợi nhuận). Nếu một
người thông suốt được phương diện đạo đức của Phật giáo, họ sẽ làm tốt
những sinh hoạt trong đời thường, bất kỳ sinh hoạt nào, không nhất thiết
là kinh doanh.
Người
xưa nói ‘phi thương bất phú’ là không kinh doanh thì không thể giàu
được, như vậy phải chăng mục đích của kinh doanh là chỉ để làm giàu?
Thực ra làm giàu cũng không hoàn toàn sai. Đức Phật dạy nếu một người có
năng lực làm giàu nhờ công sức và trí tuệ của chính mình, và biết sử
dụng của cải vật chất đó làm lợi mình lợi người thì rất tốt. Còn cái
giàu do lừa dối để lợi mình hại người thì không được.
Hiện
nay nhiều người nói “thương trường như chiến trường”, là sát phạt lẫn
nhau v.v. Ví dụ thứ nhất: Nếu một hợp đồng giữa hai công ty A & B
mà bên nào cũng chỉ nghĩ làm sao thu lợi nhiều nhất, không hề nghĩ đến
quyền lợi của bên đối tác, thì đúng là ‘chiến trường’ chứ còn gì nữa!
Điều đó rất đáng sợ. Ví dụ thứ hai: Một công ty vận tải hàng hóa thấy
đường bộ thường bị kẹt xe liền phát triển phương tiện vận tải đường
sông. Như vậy vừa có lợi cho công ty mình mà vừa phục vụ hiệu quả cho
người tiêu dùng, tức không chỉ nghĩ đến lợi nhuận cho mình mà còn có
tinh thần trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của đại chúng, nghĩa là lợi mình
lợi người.
Kinh
doanh là giúp cho sinh hoạt xã hội cân bằng và tương trợ lẫn nhau dựa
vào nguyên tắc lợi mình lợi người (chứ không phải lợi mình hại người).
NH: Thưa thầy, nếu áp dụng đạo Phật vào kinh doanh thì có điểm gì hạn chế? Khó khăn?
HT.TVM: Trong giới Phật tử không ít người có liên hệ đến ngành kinh doanh. Để việc kinh doanh mang lại lợi ích cho xã hội, thì người Phật tử
phải thông hiểu nguyên tắc đạo đức trong giáo lý nhà Phật; khi đó thì
chỉ có lợi chứ không có hại. Nguyên tắc chính yếu đó là phải nhận thức
đúng và hành xử tốt. Đúng là đúng với quy luật tự nhiên và quy định xã
hội. Tốt là không hại mình hại người, hay lợi mình hại người.
Cũng
chính vì nguyên tắc đó mà Phật giáo có hạn chế một số ngành kinh
doanh có hại như kinh doanh ma túy, rượu bia, chất độc, vũ khí, sát
sinh v.v. Nếu doanh nhân không kinh doanh những thứ đó thì sẽ không
gây tổn hại cho con người, cho xã hội, cho môi sinh và cho nền hòa bình
thế giới.
Tất
nhiên không có gì tuyệt đối. Tính đạo đức thực tế trong cuộc sống là
tương đối vì chỉ cần hiệu quả tốt nhất chứ không thể hoàn hảo. Ví dụ như
vua Trần Nhân Tông, khi chưa đi tu nhưng đã là Phật tử, đã hiểu rõ lẽ
nhân quả, mà vẫn điều quân khiển tướng ra trận đánh giặc ngoại xâm.
Trong hoàn cảnh đất nước cần người cầm quân đánh giặc, Phật tử Trần Nhân
Tông là người biết rõ đạo lý mà hy sinh đi đánh giặc thì sẽ giảm thiểu
tối đa tổn hại tài sản và nhân mạng cho cho cả hai bên, nếu để người cầm
quân hung bạo hiếu sát thì sẽ gây ra vô số thiệt hại. Lịch sử cho thấy
thời Lý Trần là thời hòa bình thịnh vượng nhất của đất nước Việt Nam vì
đã biết ứng dụng đạo Phật vào trong việc cai quản đất nước, về mọi mặt,
không ngoại trừ phương diện kinh tế mà kinh doanh là một phần trong đó.nguoiphattu.com
NH: Thưa thầy, nếu ứng dụng vào kinh doanh thì theo đạo Phật yếu tố nào giúp doanh nhân đạt được hiệu quả cao?
HT.TVM: Đạo
Phật có ba yếu tố giúp cho mọi sinh hoạt đều có thể trở nên tốt đẹp, đó
là trong lành (giới), định tĩnh (định), sáng suốt (tuệ) mà trong đời
sống hàng ngày thường được biểu hiện dưới ba hình thức thiết thực là
thận trọng, chú tâm, và quan sát. Nếu doanh nhân biết ứng dụng ba yếu tố
này thì sẽ rất dễ thành công.
- Thận trọng là cẩn thận kỹ lưỡng trong mọi công việc…
- Chú tâm là sự chuyên tâm, thành ý, không xao lãng.
- Quan sát là xem xét thẩm tra một cách khách quan rõ ràng.
Đó
là ba yếu tố cần thiết giúp chúng ta biết điều chỉnh cho hoàn hảo tất
cả mọi lãnh vực hoạt động của con người dù việc nhỏ hay lớn. Ví dụ như
trước khi đầu tư vào một việc gì cần phải chú tâm quan sát một cách thận
trọng để xem chúng ta nên kinh doanh gì, có phù hợp với khả năng và vốn
đầu tư không, thị trường tiêu dùng như thế nào v.v. Như vậy kế hoạch
đầu tư mới khả thi.
Ngoài ra còn có bốn điều kiện cơ bản để thành công gọi là bốn điều như ý (Iddhipāda), đó là:
1) Có nhu cầu hay nguyện vọng chính đáng
(Chand’iddhipāda).
2) Có chuyên cần nỗ lực để thực hiện
(Viriy’iddhipāda).
3) Có quyết tâm không thối chí nản lòng
(Citt’iddhipāda).
4) Có nhận thức rõ tiến trình thực hiện
(Vimams’iddhipāda).
Thiếu bốn điều kiện trên thì không thể nào thành công trong bất kỳ việc gì, kể cả kinh doanh.
Thực
ra, trong Phật giáo có vô số những pháp giúp cho doanh nhân làm giàu
một cách chân chính, ví dụ Tứ nhiếp pháp, Tứ vương pháp v.v.
NH: Nhân tiện xin thầy cho một ví dụ nữa ạ.
HT.TVM: Ví dụ như 4 pháp sau đây:
1/
Thức thời đạt vụ (saccamedha). 2/ Thông hiểu nhân tâm (purisamedha).
3/ Có biện pháp đúng (sammāpāsa). 4/ Biết cách giao tiếp (vācāpeyya)
có thể giúp doanh nhân thành đạt một cách chính đáng.
NH:
Thưa thầy, những người bản chất đã tốt, có thể dễ dàng thực hành những
yếu tố trên, còn những doanh nhân không biết cách, chỉ tập trung vào lợi
riêng thì bằng cách nào giúp họ trở lại ‘hướng thiện’ được ạ?
HT.TVM: Nếu
được, nên mở những lớp giáo dục đào tạo hay những buổi thảo luận về
đạo đức trong kinh doanh để những người có kinh nghiệm trong lãnh vực
này truyền đạt cho người khác. Sách báo viết về những đề tài này cũng là
phương tiện truyền đạt những thông tin tích cực. Đồng thời, những Phật
tử chân chính nên ứng dụng đạo đức kinh doanh trước và chứng minh
được sự thành công của mình để làm những tấm gương điển hình cho
những người khác.
NH: Thưa thầy, có cách nào ứng dụng những giá trị trên vào kinh doanh một cách đơn giản nhất không ạ?
HT.TVM: Thường
biết mình biết người hay nói cách khác là thường sống tỉnh thức. Biết
mình trong tỉnh thức thì mới điều chỉnh được nhận thức và hành vi cho
đúng tốt với mọi người.
NH: Thưa thầy, vậy doanh nhân có cần phải ngồi thiền hàng ngày để có khả năng biết mình trong tỉnh thức như thầy nói không ạ?
HT.TVM:
Không cần thiết phải ngồi, vì thường sáng suốt, định tĩnh, trong
lành hay thận trọng, chú tâm quan sát chính mình trong công việc hay
trong quan hệ với hoàn cảnh xung quanh đã là thiền rồi. Nỗ lực ngồi
thiền đôi lúc tạo ra căng thẳng và mất thì giờ vô ích, vì cố gắng ổn
định chính là làm mất sự ổn định tự nhiên, và ngay khi cố ổn định là đã
tạo ra lực mâu thuẫn đối kháng rồi làm sao mà nhất tâm được nữa. Chính
sự đối kháng này tạo ra bất an và tiêu hao năng lực.
Khi
có điều kiện thuận lợi nên ngồi thư giãn buông xả cho tâm rỗng lặng
trong sáng thì tâm sẽ tự ổn định chứ không phải dụng công hay dồn nén
cho mất sức. Trong bản chất con người có khả năng tự điều chỉnh, nhưng
vì quá vọng động tạo tác mà mất đi. Nếu doanh nhân hành động, nói
năng, suy nghĩ một cách sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì chính việc
kinh doanh là thiền, chứ không phải ngồi thiền để kinh doanh.nguoiphattu.com
NH: Thưa
thầy, vậy thầy nghĩ thế nào về nói dối trong kinh doanh, liệu có chấp
nhận được không, có đi ngược lại với giới luật nhà Phật không?
HT.TVM:
Thực ra, lời nói dối hay không dối không quan trọng bằng lời nói đó
có hại người hại mình hay không. Nói thật mà hại mình hại người thì còn
nguy hiểm hơn là nói dối nhưng lợi mình, lợi người.
Một lời nói có giá trị cần 5 yếu tố:
1. Chân (sacca) là nói đúng là thật.
2. Thiện (kusala) là sự thật đó có hiệu quả tốt đẹp, lợi mình lợi người.
3. Mỹ (piya) là cách nói khéo léo sao cho người nghe vui lòng chấp nhận.
4. Thời (kāla) là nói đúng lúc.
5. Vị (thana) là nói đúng chỗ.
Không
nên nói dối với mục đích lừa gạt để lợi mình hại người. Nhưng nếu biết
cách nói khéo léo, hư cấu để đem lại lợi ích cho mình và người thì đó có
vẻ như không đúng sự thật nhưng không phải là nói dối.
Trong kinh Phật có 2 câu chuyện sau đây minh chứng điều đó:
Câu
chuyện thứ nhất: Có một người tiều phu, khi vợ mang thai muốn ăn món
ngon vật lạ nhưng giữa rừng không có, liền nghĩ cách giả làm nhà sư
đi vào cung vua khất thực, được vua cúng dường cao lương mỹ vị mang về
cho vợ. Anh ta cố gắng giữ tướng mạo trang nghiêm khi đi khất thực nên
nhà vua đem lòng tôn kính. Vua sai một vị đại thần đi theo nhà sư cho
biết chỗ để vua sẽ đích thân đến cúng dường. Vị đại thần theo đến nơi
phát hiện sự thật, nhưng nghĩ rằng nếu nói thật thì nhà vua sẽ nổi trận
lôi đình mà giết gã tiều phu, vì vậy để không hại vua mà cũng không hại
gã tiều phu, vị đại thần đã trình tấu rằng: “Thần theo đến trong rừng
thì nhà sư biến mất”. Nói như vậy là hư cấu chứ không nói dối vì nhà sư
bỏ y vàng ra trở lại một tiều phu cũng giống như biến mất tướng mạo nhà
sư.nguoiphattu.com
Câu
chuyện thứ hai: Một nhà sư (thật) đang ngồi thiền trong rừng thấy một
con nai chạy ngang qua, sau đó có mấy người thợ săn đến hỏi nhà sư có
thấy con nai chạy ngang qua đây không. Nhà sư đứng dậy và nói: “Đứng đây
ta không thấy con nai nào cả”. Lời nói có vẻ như dối nhưng lại thật vì
khi ngồi thì thấy chứ khi đứng đâu có thấy.
Như
vậy vấn đề là ở chỗ lương tâm và cách thể hiện lời nói sao cho có hiệu
quả lương thiện chứ không phải cứ nói thật mà lại có thâm ý hại người.
NH: Chúng con xin chân thành cảm ơn Hòa thượng đã giúp chúng con có cái nhìn mở rộng hơn về đạo đức kinh doanh.
*Đạo Phật và Kinh doanh
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 142