'Chuyến đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại'
Thật là một tư tưởng cay đắng cho những ai chỉ biết vui hưởng của cải
trần gian, nhưng lại là một viễn tượng đáng khát vọng cho những người
sống cơ cực. Sự chết nhắc nhở ta về bản chất thật ngắn ngủi, thật mong
manh phù du của đời sống con người trên dương thế. Đứng trước định mệnh
khắt khe đó, người ta dễ có một nhận định sầu thảm đôi khi sinh ra một
thất vọng chán chường.
Đức Đạt lai Lạt ma - lãnh tụ tinh thần của Phật giáo Tây Tạng
Tuy nhiên sự khôn ngoan chân thực thì vượt xa nhận định ấy khi nhận
biết thân phận mình nằm trong vòng tay Chúa Trời. Điều đó giúp ta khám
phá ý nghĩa sự sống đích thực qua sự chết. Khi nghĩ đến những người đã
chết, chúng ta cũng phải nghĩ tới cái chết của chính bản thân mình. Đó
là chuyến đi cuối cùng, một chuyến đi quyết định và quan trọng hơn tất
cả, chuyến đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại.
Chết - giải thoát khỏi nhà tù thân xác
Về phương diện triết lý, mỗi trường phái triết học có một ý niệm về sự
chết khác nhau tùy theo nhân loại học của họ: Các thuyết duy vật đều
quan niệm cái chết là một hiện tượng tự nhiên, thuộc quy luật sinh lý,
tức là việc tiêu tan các yếu tố lý hóa đã khiến cho thân thể sống động.
Lập trường của các sinh-hoạt-thuyết (Vitalisme) chấp nhận một nguyên
tắc sinh hoạt không có bản ngã. Họ cho rằng, chết là cái nguyên tắc đó
trở về với nguyên tắc sinh hoạt của vũ trụ. Chẳng hạn, Bà-la-môn giáo
cho rằng, chết là trở về với Brahman, tức là hồn của vũ trụ. Mạnh Tử
cũng cho rằng, chết là hợp nhất với vũ trụ. Còn Hégel cho rằng, chết là
tan mất trong tinh thần tuyệt đối.
Theo Nhị nguyên thuyết xuất phát từ Platon, cho rằng chết là linh hồn được giải thoát khỏi nhà tù thân xác.
Triết hiện sinh vô thần thì coi cái chết cũng vô lý như sự sống vậy (J. Sartre).
Có những chủ thuyết khác tránh né vấn đề sự chết, chỉ lo sống thôi.
Tránh né cũng là hình thức lo sợ, không dám tìm hiểu, không dám đả động
đến. Riêng Trang Tử coi cái sống và cái chết là lẽ tự nhiên, bình thường
và bình đẳng, nên ông chẳng xao xuyến gì trước cái chết, thản nhiên ra
vào cuộc đời: “Bậc chân nhân không ham sống, không sợ chết, vào không
vui, ra không buồn, thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”. Đối với ông,
sống chết cũng giống như chuyện Được Mất, mà Được là thời,
Mất là thuận. “Thuận Thiên giả tồn”, cứ theo ý Trời thì chẳng phải lo
sợ gì.
Trong Phật giáo, chết được dùng để chỉ sự sinh diệt, thăng trầm của
tất cả các hiện tượng, các Pháp. Trong bộ luận Thanh tịnh đạo, vị Đại
luận sư Phật Âm (buddhaghosa) diễn tả như sau:
“Theo chân lý tuyệt đối thì chúng sinh chỉ hiện hữu trong một
thời gian rất ngắn, một thời gian ngắn như một khoảnh khắc của nhận thức
(một ý niệm, Sát - na). Như một bánh xe, trong khi đang lăn cũng như
đang đứng yên, chỉ chạm đất ở một điểm duy nhất. Như thế, chúng sinh chỉ
sống trong một khoảnh khắc của một nhận thức. Nhận thức này (ý niệm)
mất đi thì chúng sinh đó chết”.
Làm sao để tái sinh trong cõi cao hơn?
Đức Đạt lai Lạt ma thứ 14 thường thuyết giảng về khoảng thời gian cận
tử và nêu rất rõ những hiện tượng mà các Du - già sư uyên thâm đều tự
chứng được. Ông bảo rằng, trong khi thiền định (khoảng 3-4 tiếng), ông
bước qua lại ngưỡng cửa sinh tử 6-7 lần với mục đích trau dồi kinh
nghiệm để chinh phục được cửa ải quan trọng này. Ông trình bày như sau:
“Con người chết với một trong ba tâm trạng: thiện, ác và trung tính.
Trong trường hợp đầu thì người chết chú tâm đến một đối tượng thiện
tính... và vì thế tự tạo cho mình một tâm trạng đầy niềm tin sâu thẳm,
khiến người ấy phát lòng từ, bi, hỉ, xả vô lượng. Người này chỉ có thể
thực hiện những đức hạnh nêu trên khi họ đã từng trau dồi chúng trong
lúc còn sống. Nếu trước khi chết mà người ta có thể phát khởi những tâm
trạng thiện trên thì một sự tái sinh hạnh phúc hơn được xem như là chắc
chắn.
Nhưng cũng có lúc thân quyến làm xao động tâm trạng của người sắp chết
và vô tình làm cho người ấy khởi tâm sân hận. Có khi thân quyến hội họp
xung quanh, khóc lóc than thở làm cho người ấy quyến luyến, tham ái.
Nếu người ấy chết với một trong hai tâm trạng trên, thì đó là một mối nguy lớn.
Cũng có người chết với một tâm trạng trung tính, nghĩa là không thiện
không ác. Trong mọi trường hợp thì tâm trạng trước khi chết rất quan
trọng. Ngay cả một người đã có chút ít tiến triển trên con đường tu tập
cũng có thể không tự chủ, để tâm tán loạn trước khi chết, khiến cho
tham, sân, si nổi lên. Nguyên nhân là những Nghiệp (karma), những Chủng
tử (bīja) đã được tích luỹ từ lâu; chúng chỉ chờ đợi những điều kiện
thuận lợi để phát hỏa.. Như vậy người chết sẽ bị tái sinh trong ba
ác đạo: Súc sinh, Ngạ quỷ và Địa ngục...Tuy vậy, người nào bình thường
chỉ biết làm những việc ác nhưng chết với một tâm trạng thiện lành
không còn mê chấp nữa, thì có thể tái sinh trong một môi trường hạnh
phúc hơn...
Cứ bình thường thì các tâm trạng và lối sống của một người là yếu tố
quyết định trong giờ phút chết. Vì thế mà trước khi chết, những tư tưởng
đã đi sâu vào cốt tuỷ của con người là tâm trạng chính, là yếu tố chính
quyết định sự tái sinh như thế nào…".
"Điều trọng yếu là vào lúc hấp hối, tâm phải ở trong một
trạng thái tốt lành. Nó là cơ may cuối cùng mà chúng ta có, và là một
dịp may không nên bị bỏ qua. Mặc dù chúng ta có thể sống một cuộc đời
rất xấu xa, nhưng vào lúc hấp hối ta nên làm một nỗ lực vĩ đại để nuôi
dưỡng một trạng thái đức hạnh (an bình) trong tâm. Nếu chúng ta có thể
phát triển một lòng bi mẫn hết sức mạnh mẽ và tràn đầy năng lực vào lúc
chết, thì có hy vọng rằng ở đời sau chúng ta sẽ tái sinh trong một đời
sống thuận lợi. Nói chung, sự quen thuộc đóng một vai trò quan
trọng trong việc này. Khi bệnh nhân sắp chết thì việc để cho người hấp
hối cảm thấy ham muốn hay oán giận là điều bất hạnh".
Khi tôi còn là một đứa trẻ, không có gì đáng nói. Vào
khoảng mười bốn hay mười lăm tuổi, tôi bắt đầu quan tâm một cách đứng
đắn về Pháp. Sau đó tôi lại mất đi nhiều thời gian trong những biến động
thời cuộc.
Điều tốt nhất tôi có thể nhớ lại là cuộc thi tôi lấy bằng Geshe (học
vị hàn lâm cao nhất trong các trường Đại học tu viện Tây Tạng), sau đó
tôi phải rời bỏ quê hương mình. Giờ đây, mặc dù có được một ít học tập
và thực hành, phần lớn đời tôi đã bị lãng phí một cách lười biếng không
lợi lạc gì nhiều. Tuy nhiên tôi không đến nỗi phải hối tiếc rằng mình đã
không thực hành.
Nếu tôi nghĩ về phương diện thực hành Tantra Du Già Tối thượng thì có
những khía cạnh nào đó của con đường tôi không thể thực hành vì những cơ
cấu thân thể của tôi bắt đầu suy thoái cùng tuổi tác. Thời gian để thực
hành Pháp không đến một cách tự nhiên mà phải được sắp xếp có chủ đích.
Nếu bạn phải khởi hành trên một hành trình lâu dài thì ở một lúc nào
đó, cần phải làm những sự chuẩn bị. Như tôi thường thích nói, chúng ta
nên dùng năm mươi phần trăm thời gian và năng lực cho những mối quan
tâm về đời sau của mình, và khoảng năm mươi phần trăm cho những công
việc của đời này.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến cái chết và rất ít nguyên nhân để
sống còn. Hơn nữa, những gì chúng ta thường coi là để củng cố đời sống,
như thực phẩm và thuốc men, có thể trở thành những nguyên nhân của cái
chết. Ngày nay, nhiều bệnh tật được cho là do bởi chế độ ăn uống của
chúng ta. Những hóa chất thường giúp tăng trưởng mùa màng và chăn nuôi
súc vật đã góp phần làm sức khỏe suy yếu đi và gây nên sự mất quân bình
trong thân thể. Thân người quá nhạy cảm, quá tinh tế khiến nếu nó quá
mập
thì bạn có mọi thứ vấn đề: bạn không thể đi đứng ngay ngắn, bị cao
huyết áp, và thể bạn trở thành một gánh nặng.
Trái lại, nếu bạn quá gầy ốm, bạn ít mạnh khỏe hay khả năng chịu đựng,
nó dẫn tới mọi thứ phiền não khác. Khi bạn còn trẻ, bạn lo lắng không
được kể đến trong số những người lớn, và khi quá già thì bạn có cảm
tưởng như bị xua đuổi ra khỏi xã hội. Đây là bản chất sự hiện hữu của
chúng ta. Nếu mối họa hại là một thứ gì tác động từ bên ngoài, thì bạn
có thể bằng cách này hay cách khác né tránh nó; bạn có thể chui xuống
lòng đất hay lặn sâu trong đại dương. Nhưng khi hiểm họa đến từ bên
trong thì
bạn không thể làm gì hết. Trong khi chúng ta còn tự do đối với sự bệnh
hoạn và khó khăn, và ta có một thân thể khỏe mạnh, chúng ta phải lợi
dụng điều đó và rút ra được cốt tủy của nó. Rút ra được cốt tủy (bản
chất) của cuộc sống là nỗ lực để thành tựu một trạng thái hoàn toàn giải
thoát khỏi bệnh tật, cái chết, sự suy sụp và nỗi sợ – đó là, một trạng
thái của giải thoát và toàn trí.
Người giàu có nhất trong thế giới không thể mang theo một vật sở hữu
duy nhất khi chết. Ngài Tsong-kha-pa nói rằng nếu chúng ta phải để lại
đằng sau thân xác này, là thứ mà ta rất thân thiết, coi như của riêng
mình và là cái từng đồng hành với ta từ lúc sinh ra như người bạn già
nua nhất, thì làm gì có chuyện không phải bỏ lại những của cải vật chất.
Hầu hết mọi người đều mất quá nhiều năng lực và thời gian chỉ để cố
gắng có được một ít thành đạt và hạnh phúc trong đời này. Nhưng vào lúc
chết, mọi hoạt động thế tục của ta, như sự chăm sóc những người thân
và bằng hữu, và sự đua tranh với những đối thủ, đành phải bỏ lại dang
dở.
Mặc dù bạn có thể có đủ thực phẩm để dùng trong một trăm năm, lúc chết
bạn sẽ phải chịu đói, và mặc dù bạn có thể có quần áo đủ mặc trong một
trăm năm, nhưng khi chết bạn sẽ phải trần truồng. Khi cái chết tấn công,
không có sự khác biệt giữa cách chết của một vị vua, bỏ lại đằng sau
vương quốc của mình, và cách chết của một người ăn mày, bỏ lại cây gậy.
Bạn nên cố gắng tưởng tượng một tình huống trong đó bạn bị bệnh. Hãy
tưởng tượng là bạn bị trọng bệnh và toàn thể sức khỏe thể xác đã ra đi;
bạn cảm thấy kiệt sức, và ngay cả thuốc men cũng không giúp được gì.
Đến lúc hấp hối bác sĩ sẽ nói bằng hai cách. Với người bệnh thì ông nói:
“Đừng lo lắng, bạn sẽ khá hơn. Không có gì phải lo âu; chỉ cần tĩnh
dưỡng.” Với gia đình thì ông nói: “Tình huống rất trầm trọng. Quý vị nên
sắp xếp để cử hành những nghi lễ cuối cùng.”
Vào thời điểm đó bạn sẽ không có cơ hội nào để hoàn tất công việc dở
dang hay để hoàn thiện việc nghiên cứu của bạn. Khi nằm đó, thân thể bạn
sẽ quá yếu khiến bạn cử động khó khăn. Rồi hơi nóng của thân từ từ phân
tán và bạn cảm thấy thân mình trở nên cứng đơ, như một khúc cây rơi
trên giường bạn. Bạn sẽ thực sự bắt đầu nhìn thấy tử thi của chính mình.
Những lời sau cùng của bạn nghe thều thào và những người ở xung quanh
phải ráng sức mới hiểu bạn nói gì. Thực phẩm cuối cùng bạn ăn không phải
là một bữa ăn ngon lành mà là một nắm thuốc mà bạn sẽ không còn sức để
nuốt trôi. Bạn sẽ phải rời bỏ những bằng hữu thân thiết nhất, dường như
phải mất nhiều kiếp bạn mới gặp lại họ. Cách thở của bạn biến đổi và trở
nên ồn hơn. Từ từ nó sẽ trở nên bất thường, hơi thở vào hơi thở ra
nhanh hơn, nhanh hơn nữa. Cuối cùng, sẽ có một hơi thở ra rất mạnh sau
cùng, và đây sẽ là sự chấm dứt việc hô hấp của bạn. Điều đó đánh dấu
sự chết như thường được hiểu như vậy. Sau đó thì tên của bạn, cái tên mà
đã một thời đem lại niềm vui cho bằng hữu và gia đình bạn khi họ nghe
tới nó, sẽ được thêm vào một từ “cố” ở trước nó.
Điều trọng yếu là vào lúc hấp hối, tâm phải ở trong một trạng thái tốt
lành. Nó là cơ may cuối cùng mà chúng ta có, và là một dịp may không
nên bị bỏ qua. Mặc dù chúng ta có thể sống một cuộc đời rất xấu xa,
nhưng vào lúc hấp hối ta nên làm một nỗ lực vĩ đại để nuôi dưỡng một
trạng thái đức hạnh (an bình) trong tâm. Nếu chúng ta có thể phát triển
một lòng bi mẫn hết sức mạnh mẽ và tràn đầy năng lực vào lúc chết, thì
có hy vọng rằng ở đời sau chúng ta sẽ tái sinh trong một đời sống thuận
lợi.
Nói chung, sự quen thuộc đóng một vai trò quan trọng trong việc này.
Khi bệnh nhân sắp chết thì việc để cho người hấp hối cảm thấy ham muốn
hay oán giận là điều bất hạnh.
Trích bài viết củaĐạt Lai Lạt Mavề cái chết theo quan điểm Phật giáo.