A. Mở đầu
Trong giờ ra chơi ở những trường Phật học, nhìn những Tăng Ni Sinh
(TNS) đi dạo trong sân trường, chúng ta nhận thấy họ thường đi theo nhóm
hoặc tập trung thành những nhóm nhỏ bàn tán, nói chuyện vui đùa sau
những giờ học căng thẳng, đây là một loại hình tâm lí nhóm được hình
thành một cách tự nhiên. TNS muốn mở rộng phạm vi không gian lớp học của
mình càng rộng có thể, để bày tỏ tư duy, khả năng diễn đạt và nhận thức
của mì nh về thế giới chung quanh. Khuynh hướng tự nhiên sống cộng
đồng, giao lưu, thi đua của TNS thể hiện tâm lí năng động ở tuổi mới
lớn. Những hoạt động tâm lí và ý chí này làm cho họ xác lập tính cách
nhóm và nhóm đó có tính tích cực hay tiêu cực hoàn toàn ảnh hưởng trong
đời sống của họ và môi trường giáo dục. Nếu giáo dục không định hướng để
sớm tác động, chắc chắn sự buồn tẻ trong học đường là điều có thể, TNS
không phát huy tính sáng tạo trong học tập và xây dựng nhân cách sống ở
học đường và sau này. Khi những hoạt động xã hội của TNS được xây dựng
làm chất xúc tác thì những chuỗi phản ứng của tuổi trẻ phát huy tác
dụng, điều này chính là động cơ làm tăng trưởng tính năng động, sáng tạo
và sức sống cho việc học và dạy trong trường Phật học.
Xây dựng và phát triển tính cách của TNS trong một môi trường năng
động trẻ trung theo một xu hướng tích cực, cởi mở, không có tính bắt
buộc, giáo điều, vị kỉ là một việc làm cần thiết của nhà trường. Chính
sự khích lệ trong tổ chức khi tham gia những hoạt động xã hội khiến cho
TNS có tính tổ chức, rèn luyện kĩ năng lãnh đạo và phát huy năng khiếu
của từng cá nhân và ý thức cộng đồng. Trong lớp học cũng cần phải phân
nhóm, tổ thông qua các hoạt động tổ chức, từ đó tính cách và tâm lí của
mỗi thành viên trong tổ chức dần dần được hoàn thiện. Hoạt động của TNS
là xây dựng một lớp học như một ngôi nhà sống động trong những ngôi
trường Phật học.Trong khi đó thì ở các trường Phật học hiện nay vẫn còn
im lặng, cổ điển, gia giáo và buồn tẻ, kể cả việc giảng dạy và nghiên
cứu chưa có tính chuyên nghiệp, chưa xây dựng được chương trình giảng
dạy xuyên suốt và cập nhật, đội ngũ giảng dạy tuy có đủ bằng cấp nhưng
còn thiếu nghiệp vụ sư phạm.
B. Nội dung chính
I. Tại sao phải tổ chức hoạt động xã hội cho TNS
Hoạt động xã hội của TNS phải hiểu theo nghĩa là một khoá học phát
triển mở rộng chứ không phải một lớp học thêm, học phụ đạo và càng không
thể hiểu là “ngoại khoá”. Những hoạt động này nhằm phát huy và kiện
toàn tổ chức giáo dục của nhà trường. Thực tế cho thấy một buổi học
ngoại khoá dễ bị hiểu nhầm không phải là một môn học nằm trong chương
trình, vì thế mất đi tính tự giác cũng như cơ hội học hỏi của TNS. Như
vậy hoạt động xã hội của TNS là một hoạt động học tập như bao hoạt động
học tập khác.
Như thế một câu hỏi được đặt ra, liệu loại hình hoạt động xã hội của
TNS có phải là một phần quan trọng trong việc học của TNS và tại sao lại
là một khoá học mở rộng? Bởi vì những lí do như sau:
1. Trường học luôn chưa thể dựa vào kết quả đơn độc của những bài
kiểm tra để đánh giá đúng chất lượng dạy học, càng không thể tiêu chuẩn
hoá giáo dục dưới những điều kiện mà trường Phật học hiện có và hiện
nay.
2. Đội ngũ giảng dạy trong các trường Phật học thường ảnh hưởng
truyền thống giáo dục cổ điển, thói quen thi cử có tính ước lệ, câu hỏi
có tính đánh đố học sinh hoặc quá quen thuộc với công thức truyền thống.
Vì thế giáo thọ cũng như TNS không khai thác bài học một cách hữu hiệu
và gợi mở óc sáng tạo, tính tự lập và tính chuyên môn của TNS, mà những
điều này là thước đo và giá trị của giáo dục.
3. Chế độ giáo dục của các trường Phật học thường theo kiểu áp đặt
nhồi sọ, thiếu phương tiện cải tiến. Như vậy đối với môi trường giáo dục
hiện đại, nhiều hoạt động giáo dục đổi mới thì làm như thế chẳng khác
gì lãng phí thời gian, công sức và tiêu phí tiền bạc.
Đó là những lí do tại sao hiện nay ở các trường học nói chung cần phải
áp dụng những phương pháp mới nhằm đáp ứng tri thức xã hội, kiến thức,
đạo đức, giới tính, thể chất, tâm sinh lí là mục đích chính của giáo dục
hiện đại và là thế giới sống đích thực của TNS.
II. Lợi ích của hoạt động xã hội của TNS
1. Giáo dục xã hội tính
Tất cả những hoạt động xã hội của TNS nhằm trang bị cho họ kiến thức
xã hội và tính chuyên môn, hay nói đúng hơn là mục đích giáo dục, vì
trường học chịu trách nhiệm điều chỉnh hành vi xã hội. Do đó, TNS phải
được giáo dục và biết tự điều chỉnh và điều chỉnh hành vi của mình,
người khác và của cả cộng động. Những hoạt động của TNS nhằm tạo ra
nhiều cơ hội quí giá cho sự thành tựu của giáo dục nói chung và cho giáo
dục Phật giáo nói riêng; đồng thời cổ vũ cho sự mở rộng trí óc và con
tim, sự cảm thông, tình người, tình hữu nghị, niềm tin vào nhân loại,
những lí tưởng mà con người cần được khuyến khích. Trong Phật giáo, giáo
dục xã hội tính rất cao trong lí tưởng Bồ tát, phục vụ chúng sanh là
nghĩa vụ thiêng liêng, đó là sự đóng góp của TNS áp dụng và thực hành
trong xã hội.
TNS tham gia những hoạt động xã hội sẽ tạo cơ hội hoà nhập cộng đồng,
đem lí tưởng Bồ tát thực hiện vào xã hội. Đặc điểm này rất phù hợp với
giáo dục hiện đại, một cá nhân xác định mình khi tham gia hoạt động vào
một tổ chức xã hội với sự lựa chọn và tự nguyện, thì họ không còn nghĩ
đến cá nhân, mà là một thành viên của nhóm. Nhóm hoạt động xã hội này
mang tính tích cực, chẳng hạn sinh viên tình nguyện “Mùa Hè Xanh”, tạo
thành một sự ảnh hưởng rất lớn trong xã hội về vấn đề giáo dục và tuyên
truyền bảo vệ môi trường.
2. Giáo dục đạo đức
Hoạt động xã hội của TNS còn trang bị vô số cơ hội cho sự khắc sâu
nguyên tắc đạo đức và sự tuân thủ nguyên tắc đạo đức. Những hoạt động xã
hội của TNS luôn phải lấy nguyên tắc làm đầu. Họ được huấn luyện trong
thời gian làm sinh viên mà ở đó đạo đức được chú trọng hơn cả kiến thức
trong các trường Phật học. Hầu hết các hoạt động của TNS rút ra được một
số lượng lớn kiến thức mà trong đó nguyên tắc đạo đức được đem ra thực
hành nhiều hơn. Từ những bài học về đạo đức, TNS hiểu được danh dự, chân
thật, công bằng và thuần thiện rồi được đưa vào trong hoạt động và cho
vận hành. Qua những hình thức như vậy, TNS tìm thấy cơ hội để quyết định
và lựa chọn cái hay cái đúng để làm theo. Đặc biệt TNS rèn luyện thành
một công dân tốt, đồng thời là một sự nuôi dưỡng một vị Phật tương lai,
lợi ích cho cộng đồng, cho xã hội và cho lục đạo chúng sanh.
3. Giáo dục biết tận dụng thời gian
Ai cũng biết cuộc đời là ngắn ngủi, thời gian không chờ đợi một ai bao
giờ. Là một TNS phải biết tận dụng thời gian để học tập, quyết không để
thời gian trôi qua một cách vô bổ chứ đừng nói đến lãng phí ở những trò
chơi (games). Chính lúc thư giãn, giáo dục Phật giáo phải biết hướng
dẫn cho sinh viên biết cách, hay nói đúng hơn là thư giãn thông minh, đó
là thực hành phép quán niệm hơi thở, xem bài tập này như một trò chơi,
thực hành trong những lúc nhàn rỗi, lúc chờ đèn giao thông, lúc ngồi
trên xe bus, máy bay, lúc đợi chờ một thủ tục nào đó, nhằm rèn luyện
tính kiên nhẫn, tránh bộc phát tâm lí và phát ngôn thô tháo. Ngoài ra
hướng dẫn TNS có thói quen đọc sách khi rảnh rỗi và đến thư viện hằng
ngày. Đó là những phương pháp sử dụng thời gian nhàn rỗi hiệu quả nhất.
Hướng dẫn sử dụng thời gian nhàn rỗi cũng là một công tác giáo dục
quan trọng. Sau những giờ học ở trường, TNS phải biết tận dụng thời gian
trong việc tu học, nâng cao đời sống tâm linh. Quỹ thời gian của một
đời người không nhiều, phải nỗ lực nuôi dưỡng và gieo hạt giống từ bi
rộng rãi trên toàn xã hội.
4. Rèn luyện kĩ năng lãnh đạo
Nói đến lãnh đạo không chỉ hạn hữu trong những chiếc “ngai vàng” được
dựng sẵn, mà lãnh đạo ở đây là sự lãnh đạo tâm linh cá nhân và tổ chức.
Người có khả năng lãnh đạo luôn luôn sáng suốt để vận hành công việc
trôi chảy và kiểm soát cả hành vi đạo đức cá nhân. Bạn không kiềm chế
được tham sân si thì cho dù bạn là một người cao cấp bao nhiêu cũng chỉ
là một lãnh đạo kém năng lực; bạn không có năng lực để điều hành một
nhóm, một tổ chức, có nghĩa là bạn kém cả đức lẫn tài, mà cả hai phạm vi
này đều do rèn luyện mà có.
Thông thường ở trong trường học truyền thống người ta chọn lựa một
người lãnh đạo là một người có năng lực nổi trội, nhưng ở trong một
trường giáo dục hiện đại thì ngược lại, họ nhận ra rằng qua giáo dục để
rèn luyện một người lãnh đạo. Đặc tính phẩm chất của lãnh đạo là biết
lắng nghe, tư duy nhạy bén và trong sáng, tự tin, tầm nhìn thoáng, biết
điều chỉnh cho tốt, nhiệt tình với công việc, nhẫn nại, vị tha, sáng
suốt và có tính thuyết phục. Những đặc tính này có thể huấn luyện được
trong môi trường bình thường. TNS qua các hoạt động xã hội của mình có
thể rút ra được kinh nghiệm lãnh đạo. Cơ hội để TNS học hỏi kinh nghiệm
lãnh đạo không chỉ ở tính chuyên môn mà chính là phù hợp với lứa tuổi,
tư duy và khả năng tiếp thu. Những vị thầy hướng dẫn đòi hỏi phải nhìn
thấy được tính chất của lãnh đạo, định hướng phù hợp cho TNS trong quá
trình giảng dạy, làm các công tác Phật sự, hoạt động xã hội của TNS
thông qua tổ chức.
5. Cơ hội hoàn thiện năng khiếu
Hoạt động của TNS là cơ hội cho cá nhân phát triển sở trường và năng
khiếu của chính mình. Qua hoạt động báo chí, nghiên cứu khoa học, diễn
giảng, điều hành công tác tổ chức, giúp TNS xác minh được sở trường sở
đoản của mình và khả năng trong những lãnh vực đó để rồi tự khám phá và
phát triển năng khiếu đó ngày càng được hoàn thiện hơn. Đó cũng là một
nên tảng cho việc nghiên cứu và học tập của TNS.
6. Hoàn thiện tâm lí tuổi mới lớn
Nhiều trường hợp đáng tiếc xảy ra trong học đường ngày nay như bạo lực
, vô lễ, kém phẩm chất đạo đức là do không có tác động của giáo dục để
hoàn thiện tâm lí tuổi mới lớn. Tâm lí thay đổi theo lứa tuổi được các
nhà Tâm lí học gọi là tâm lí lứa tuổi. Tuổi mới lớn thường bộc phát là
do không có sự kiềm chế và không có tham gia những hoạt động mang tính
rèn luyện ý chí. Nếu một người sống có nguyên tắc thì sự bộc phát của
tâm lí sẽ nhường chỗ cho sự tự kiềm chế và giải đáp thoả đáng bằng lí
trí.
Ở học đường thường xảy ra các tình trạng băng hoại đạo đức như “đánh
hội đồng”, chơi games, phạm tội ở tuổi vị thành niên... là do nhà
trường không có hoạt động xã hội giúp cho sinh viên và học sinh hoàn
thiện tâm lí tuổi mới lớn, nhằm hạn chế các hành vi bất lợi, định hướng
cho hành vi đạo đức. Những yếu tố này có thể ảnh hưởng đến lứa tuổi
trưởng thành sau này của cá nhân.
Đối với TNS, tâm lí tuổi mới lớn cũng chuyển biến phức tạp, cần phải
định hướng cho TNS tiêu chuẩn hành vi và tổ chức nhiều hoạt động xã hội
có nội dung hoàn thiện tâm lí lứa tuổi, để vượt qua những thách thức của
cuộc đời giúp TNS ngày càng hoàn thiện hơn trên bước đường phục vụ lí
tưởng của mình đã chọn.
III. Đề xuất các hình thức hoạt động của TNS
1. Thành lập Hội Tăng Ni Sinh
Hội Tăng Ni Sinh (HTNS) là tổ chức mà được tất cả các TNS thành lập,
đồng thời hoạt động của Hội là sức sống của một ngôi trường Phật học.
Mục đích thành lập HTNS là để giáo dục tính đoàn kết, hoà hợp trong thế
giới sinh viên giữa các lớp, các khoa trong một trường; đồng thời là một
tổ chức đại diện cho TNS tham gia các hoạt động giao lưu với c ác
trường Phật học khác tỉnh và các Hội Sinh Viên của những trường bên
ngoài. Đây được xem là một đời sống trường học liên quan đến những vấn
đề đạo đức và xã hội. HTNS sẽ là những tác động và và duy trì tiêu chuẩn
đạo đức và học thuật trong nhà trường, đáp ứng những phương tiện hữu
ích thông qua chính bản thân của TNS. Hơn hết, HTNS là hình ảnh sống
động đại diện cho tinh thần của một ngôi trường, mà trong môi trường này
tất cả TNS đều một lòng muốn xây dựng uy tín cho nó, làm cho nó thăng
hoa trong tầm tay của chính họ.
Sức mạnh của HTNS:
HTNS có một sức mạnh có thể làm thay đổi chất lượng và tiêu chuẩn của
một ngôi trường cá biệt từ kém sang tốt. HTNS sẽ điều khiển mọi hoạt
động xã hội của TNS. Qua mỗi hoạt động của TNS được quan tâm trong
trường Phật học mới thấy được các giá trị của tổ chức, làm được một hoạt động Phật sự nhỏ dần dần làm được những Phật sự lớn . Đó là châm ngôn của HTNS ở các trường Phật học.
Tổ chức HTNS: HTNS là những thành
viên được các TNS bầu chọn nên và phải bảo đảm tính dân chủ trong phương
pháp tuyển chọn. Hội là tiếng nói chung của tất cả mọi TNS trong
trường. Qua mỗi nhiệm kì phải được bầu lại, nếu trong quá trình hoạt
động không có chuyển biến và hiệu quả thì phải thay đổi hoặc buộc phải
thay đổi. HTNS chịu sự phản ảnh và chịu t rách nhiệm với Hội Đồng Điều
Hành của trường.
Mỗi trường Phật học cần phải có một HTNS để thực hiện các hoạt động
của TNS, ngoài ra HTNS đại diện để ban giao, giao lưu với các trường
khác nhằm mục đích học hỏi và nâng cao tinh thần tập thể và phát huy tài
năng của cá nhân và tạo uy tín cho trường.
Giá trị của HTNS:
TNS học cách để trau dồi tư cách đạo đức trong việc tu học và cuộc sống
hằng ngày của chính mình, thông qua những hoạt động của TNS. Trong đó
giáo thọ và TNS có một mối quan hệ cộng tác mật thiết, nhằm hoàn thiện
công tác giảng dạy cũng như chất lượng của bài học. TNS có thể thông qua
các kênh thông tin để đề đạt nguyện vọng của mình. Thông qua các hoạt
động, TNS tự hoàn thiện, học hỏi và đây là cơ hội để họ tiếp xúc với môi
trường đa dạng, từ đó rút ra kinh nghiệm cho đời sống tu học của mình
và hoà nhập cộng đồng.
2. Tổ chức hoạt động tham quan
Tham quan nhằm mục đích thị sát thực tế, điều tra trực tiếp, lấy cứ
liệu sống, khám phá và phát triển tư duy, mở rộng tầm nhìn của TNS về
thế giới của họ. Những kinh nghiệm này không thể có được trong lớp học
khép kín và những bức tường của trường học. Giáo dục bằng cách bắt buộc
học từ sách vở cũng cần phải qua kiểm chứng, đặc biệt là các môn học
liên quan đến lịch sử. Tham quan còn nâng cao kiến thức về môi trường,
lịch sử, phong tục tập quán, nhiếp ảnh, quay phim, yếu tố thời tiết, khí
hậu, tư tưởng vùng miền, truyền thống văn hoá, tổ chức xã hội cộng
đồng, di sản văn hoá và hữu nghị giao lưu.
Tham quan là một loại hình hoạt động liên kết thuận lợi nhất cho TNS
có cơ hội quan sát và so sánh đời sống đa dạng giữa chùa chiền, trường
học và cộng đồng xã hội. Từ đó có một cách ứng xử thích hợp với mọi
người, với hoàn cảnh và phong tục tập quán.
Qua hoạt động tham quan, TNS có thể bổ túc kiến thức và những bài học
thức tế; còn đối với nhà quản lí giáo dục thì họ rút ra kinh nghiệm quản
lí, đề ra những phương pháp giảng dạy hiệu quả, so sánh thực tế và lí
thuyết để bổ sung kiến thức cho TNS.
3. Hoạt động báo chí, truyền thông và xuất bản
Hoạt động báo chí, truyền thông và xuất bản ngày nay là một lãnh vực
hoạt động hầu như rất cần thiết và quan trọng trong mọi ngành của xã
hội, đặc biệt trong giáo dục, những hoạt động này càng giúp ích cho việc
dạy học. Trong trường học nếu thiếu hoạt động này thì cũng giống như
bịt tai mà hát, bịt mắt mà vẽ. Giáo dục là trao truyền kiến thức bằng
nhiều phương tiện thông tin cho học sinh, do đó những hoạt động này cần
phải được quan tâm giúp cho TNS có cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn kiến
thức mới, cập nhật và trao đổi qua hệ thống hoạt động này. Ngoài ra, qua
báo chí, website, in ấn xuất bản, TNS có cơ hội làm quen với báo chí,
bài viết, bài nghiên cứu, và nhiều kĩ thuật liên quan.
Hoạt động in ấn xuất bản là mục tiêu tinh thần của trường học, nếu
chúng ta để lãnh vực này đóng băng thì uy tín của một ngôi trường của
chúng ta bị mốc meo. Thông qua hoạt động báo chí, truyền thông và in ấn
xuất bản thì dự án của trường sẽ được sống động; bài viết, thông báo,
báo cáo khoa học, thông tin trường lớp đều được đăng tải cho sinh viên
tham khảo; ti ếng nói của TNS được phổ biến và nâng cao uy tín của
trường. Vì vậy, thật là khó coi khi một ngôi trường giáo dục không có
tiếng nói của một tờ báo, tạp chí nghiên cứu, website làm tiếng nói đại
diện để gắn kết những tâm nguyện và thắp sáng niềm tin cho thế hệ trẻ
TNS.
Hoạt động in ấn xuất bản là nơi để cho TNS thể hiện sự đóng góp khả
năng của mình trong nhiều lãnh vực nghiên cứu, trao đổi kiến thức và
kinh nghiệm tu tập, trau dồi kĩ năng viết văn, luận văn, khảo luận, văn
hoá nghệ thuật...
4. Tạp chí, nội san, nguyệt san, tập san nghiên cứu
Đi liền với hoạt động báo chí truyền thông và in ấn xuất bản là hoạt
động tạp chí, nội san, nguyệt san, tập san nghiên cứu khoa học. Tạp chí
của trường là một sản phẩm trí huệ của các thành viên của trường từ cán
bộ điều hành, các bộ giảng dạy, cho đến các thành viên TNS trong trường.
Đây là một sân chơi lí tưởng và hữu ích cho mọi người, đồng thời là cơ
hội cho các TNS thể hiện tài năng của mình trên diễn đàn.
Cùng với tạp chí thì các tập san và tập san nghiên cứu là lãnh vực cần
được quan tâm bởi những nhà điều hành trường Phật học. Bởi vì trong một
thời gian giảng dạy, học tập và nghiên cứu, thì đòi hỏi đội ngũ giảng
dạy và nghiên cứu, sinh viên của trường phải có tác phẩm nghiên cứu
trình làng để thể hiện công việc và kế t quả giảng dạy và nghiên cứu của
họ. Hiện nay những lãnh vực này hầu như bỏ ngỏ, thiếu vắng đội ngũ
nghiên cứu chuyên nghiệp để cho ra đời những sản phẩm trí tuệ rất cần
thiết đáp ứng cho nhu cầu xã hội về tôn giáo.
Qua những hoạt động này uy tín của trường được nâng cao, có nhiều
người quan tâm và biết được hoạt động giáo dục và nghiên cứu của trường
và tạo cầu nối liên kết và hợp tác của nhiều học giả và sự ủng hộ của
mọi người đối với hoạt động giáo dục của trường. Từ đó chất lượng giáo
dục của trường ngày càng được cải thiện, là nơi đào tạo nhiều thế hệ
Tăng tài cho Phật giáo.
5. Tổ chức hoạt động tình nguyện và thiện nguyện
Trong một xã hội lúc nào cũng cần có những con người mẫu mực, biết hi
sinh, biết vì lợi ích chung, vì thế công việc tình nguyện luôn đòi hỏi
người có ý thức cao trong công việc mà không đòi hỏi. TNS là những người
đại diện cho những công việc này bằng cách mỗi tuần 1 buổi hoặc 1 giờ,
chẳng hạn như công việc vệ sinh đường phố, tuyên truyền phòng chống dịch
bệnh, tình nguyện viên ở các phong trào mùa hè xanh, tiếp sức mùa thi,
bảo vệ môi trường, thăm và chăm sóc ở các viện dưỡng lão... Ngoài ra còn
làm những công tác thiện nguyện như cứu trợ vùng lũ lụt, hiến máu nhân
đạo và y tế dự phòng... Tất cả đó là một việc làm của Bồ tát, của tinh t
hần phổ độ chúng sanh.
Mục đích và giá trị của hoạt động tình nguyện và thiện nguyện là giúp
TNS tiếp xúc với môi trường bên ngoài, luyện tập ý chí và tinh thần vì
lợi ích cho mọi người và xã hội, rèn luyện tính tự giác, tự kiềm chế,
tính chịu đựng, tự giúp mình, biết hi sinh lợi ích cá nhân, xây dựng
cộng đồng và thế giới tốt đẹp hơn.
6. Hoạt động thảo luận, diễn giảng, thuyết trình
Thảo luận, diễn giảng và thuyết trình là một bộ môn nghệ thuật cần
được rèn luyện cho TNS, không phải để thuyết phục người khác mà để trình
bày chân lí, nêu giá trị đạo đức và giá trị giáo dục.
Thảo luận rất hữu ích trong lãnh vực giáo dục và rèn luyện kĩ năng tư
duy. Thảo luận làm cho vấn đề sáng tỏ, đề tài thảo luận cần được lựa
chọn và có tác dụng bổ sung kiến thức cho TNS, cần thông báo trước để
mọi người tìm hiểu và cần có nhiều người đến tham gia càng nhiều càng
tốt.
Diễn giảng là một kĩ năng biết vận dụng ngôn ngữ trong sáng để trình
bày một vấn đề cho mọi người hiểu, trong đó người diễn giảng phải vận
dụng nhiều khả năng cùng một lúc đó là kiến thức, cách sử dụng ngôn từ,
sự tự tin, phép phân tích và qui nạp. TNS cần có nhiều đề tài và buổi
diễn giảng để trau dồi các kĩ năng này của mình để có sự chuẩn bị và
tích luỹ kinh nghiệm cho công việc hoằng pháp sau này của mình.
Thuyết trình là một phương pháp để TNS có cơ hội thực tập ngay trên
chính bài học, lớp học và cuộc sống ở trường của mình, đưa ra những lập
luận đúng sai. Hoạt động này thường chia làm nhiều nhóm để cùng tranh
luận và phản biện, tìm đáp án chính xác, bổ sung c ho bài học mà mình
vừa mới học xong.
Những hoạt động này nhằm giúp cho TNS nắm bài vững hơn và sâu hơn, có
thời gian tìm hiểu thực tế và tìm tòi nhiều tư liệu liên quan, tập cho
TNS có kinh nghiệm sưu tập tư liệu và xử lí thông tin trên tư liệu.
Ngoài ra còn trau dồi kĩ năng biện luận, phản biện, lập luận logic và
thuyết phục. Trong giáo dục Phật giáo những kĩ năng này rất quan trọng,
cần phải có chương trình hoạt động thường xuyên có định kì, vạch sẵn đề
tài để TNS tự chọn và có thời gian chuẩn bị. Ngoài s ự bổ sung kiến thức
cho TNS, những hoạt động này cung cấp một nguồn thông tin, bài vở, tài
liệu nghiên cứu phong phú để phục vụ cho nhu cầu tạp chí, nội san và tập
san nghiên cứu định kì của trường.
7. Tổ chức câu lạc bộ Thiền
Thiền học và thực hành ngày nay thu hút rất nhiều người trong mọi
thành phần xã hội, nhưng để có sự chuyên môn và đi đúng tinh thần của
Thiền thì phải cần đến sự giúp đỡ của Tăng Ni. Tăng Ni được xem như một
bậc thầy về tính chuyên nghiệp trong Thiền học và thực hành. Tuy nhiên
điều này không phải hễ là Tăng Ni thì ai cũng chuyên nghiệp trong lãnh
vực này vì còn tuỳ thuộc vào pháp môn mà họ tu học. Nhưng TNS lại là
những người có học và thực hành thiền thông qua các khoá học ở trường
nên có tính chuyên nghiệp truyền đạt lại cho người khác .
Trong trường Phật học cần phải thành lập câu lạc bộ Thiền hay Thiền
dưỡng sinh đều có thể, khuyến khích TNS nghiên cứu và thực hành ngồi
Thiền, càng chuyên môn càng tốt. Cần xác lập nội quy và tiêu chuẩn của
câu lạc bộ, nhằm thu hút TNS tham dự và thực hành. Đây là một hoạt động
rất cần thiết không những cho TNS mà còn cả đối với đội ngũ giảng dạy,
mọi người muốn tiếp cận với giá trị giải thoát của tự thân và sức khoẻ.
8. Tổ chức hoạt động thực tập đa chiều cho TNS
Học đi đôi với hành là phương châm của giáo dục, ở trường Phật học
cũng không ngoại lệ và cũng chưa thấy ngành học nào chỉ có lí thuyết
suông, hơn thế học Phật cần phải thực hành nhiều và liên tục mới mong
trau dồi thành thục kiến thức của mình. Các trường Phật học hiện nay
chưa thấy có giờ thực hành, phòng Lab, chưa tạo được môi trường thực
hành, chương trình cụ thể về thực hành, mặc dù ai cũng biết, giáo viên
và TNS đều biết. Có lẽ do điều kiện khách quan và chủ quan. Tuy nhiên,
nếu chúng ta quan tâm hơn và đầu tư hơn nữa sẽ thấy có rất nhiều môi
trường để cho TNS tiếp cận và áp dụng kiến thức của mình với thực tế.
Ở Việt Nam, Phật giáo có nhiều môi trường để cho TNS thực tập giảng
dạy, chẳng hạn ở trường Trung Cấp Phật Học, đạo tràng, đoàn chúng, Gia
đình Phật tử; hoặc khảo cứu lịch sử Phật giáo và chùa chiền qua các thời
kì, Trung tâm Phật giáo Luy Lâu chưa khai thác; hoặc thực tập ở những
cơ sở hành chánh BTS của Giáo hội. Tại sao không, và tại sao không tạo
điều kiện để TNS có cơ hội thực tập và nghiên cứu? Chẳng hạn riêng ở
Huế, có rất nhiều Ni ệm Phật Đường rất cần sự hướng dẫn của Tăng Ni, mà
trong đó nhiệm vụ và trách nhiệm thuộc về họ. Trong khi đó những trường
Phật học tại sao không tạo điều kiện để TNS về đây thực tập, hướng dẫn
các sinh hoạt Phật sự, trong khi đó TNS hầu như còn phải ngỡ ngàng trước
khái niệm về thực tập hoặc khó khăn tìm cho ra nơi thích hợp để thực
tập. TNS tốt nghiệp không chỉ đạt tiêu chuẩn của bài thi, chứng chỉ,
khoá luận và luận văn tốt nghiệp mà còn phải trải qua kì thực tập tối
thiểu là 1 tháng. Điều mà các trường Đại học bên ngoài đã làm và làm
tốt.
Thực tập giúp TNS rèn luyện các kĩ năng thuyết giảng, điều hành buổi
lễ, tổ chức các khoá tu và các hoạt động lễ hội có văn hoá của Phật
giáo. Ngoài ra TNS còn phải mở các lớp giảng dạy Phật pháp, thực tập trú
trì rút kinh nghiệm sau này còn phải tham gia vào các hoạt động hoằng
Pháp của Giáo hội và phục vụ quần sinh.
Thực tập phải qua kiểm tra và đánh giá trên nhiều phương diện dựa vào
quy trình cụ thể do nhà trường đề ra. Quá trình kiểm tra và đánh giá
bằng văn bản điề u tra và thống kê, rút ra nhiều kinh nghiệm thực tế cho
giáo dục, hoạt động hoằng Pháp và đáp ứng nhu cầu Phật pháp ở vùng sâu
vùng xa.
Một lựa chọn khác là TNS thực tập giảng dạy ở các trường thấp hơn
trong Phật giáo, chẳng hạn như trường Trung cấp Phật học. TNS được giới
thiệu đến thực tập ở các trường Trung cấp Phật học, ngoài công việc thực
tập giảng dạy, TNS còn phải đóng vai trò tổ chức lớp học, chủ nhiệm,
sinh hoạt tập thể và các hoạt động khác của trường yêu cầu. Chính vì
thế, trong chương trình giảng dạy ở các trường Trung cấp Phật học phải
có một thời gian để TNS các Học viện Phật giáo về thực tập. Để thực hiện
chương trình này, Ban Điều Hành các Học Viện Phật giáo phải liên hệ và
hợp tác với các trường Trung Cấp Phật Học ở các tỉnh thành để giới t
hiệu TNS về thực tập.
Ngoài ra, ở các cơ sở Ban Trị Sự của Giáo hội các tỉnh thành cần phải
tạo điều kiện cho các TNS đến thực tập hành chánh, công văn, lưu trữ văn
thư... trong văn phòng của các Ban Trị Sự các tỉnh thành. Những công
việc như vậy giúp TNS có cơ hội làm việc hành chánh mỗi khi các BTS các
tỉnh thành cần tuyển, tránh được tình trạng thiếu nhân lực và yếu kém
nhân lực, trong lúc chúng ta đã lãng phí nhân lực của Phật giáo.
Tổ chức thực tập cho TNS không chỉ phục vụ cho mục đích giáo dục hay
gi ảng dạy, mà nhằm tạo điều kiện và cơ hội cho TNS tiếp xúc với công
việc thực tế mà sau khi ra trường TNS khỏi bỡ ngỡ. Các trường Phật học
và Giáo hội phải luôn tạo điều kiện thuận lợi cho TNS có môi trường để
thực tập và phục vụ lí tưởng bằng sức trẻ và tí nh năng động của tuổi
trẻ, chứ tuổi già không thể nào đảm trách nỗi. Mỗi lần tổ chức thực tập
là TNS có cơ hội để trau dồi kĩ năng và thực tế, mỗi lần thực tập thì
kết quả lớn nhất là tạo niềm tin và uy tín cho trường.
C. Kết luận
Vai trò hoạt động xã hội của TNS nhằm bồi dưỡng cho họ kiến thức thực
tế và học đường, tạo cơ hội để TNS phát huy khả năng trong các lĩnh vực
xã hội, qua đó TNS hoàn thiện nhân cách sống, ứng xử cộng đồng, hoàn
thiện năng khiếu của mình qua những hoạt động xã hội này. Những loại
hình sinh hoạt như thế đã đưa ra những bằng chứng cụ thể và thiết thực,
vì vậy chúng ta không thể xem những hoạt động xã hội này là “ngoại
khoá”, mà là một chương trình học mở rộng thật thụ, mở rộng lớp học với
một không gian lí tưởng, bổ sung kiến thức cho gi ảng đường một cách
sinh động, nâng cao chất lượng dạy và học. Qua hoạt động xã hội, TNS sau
khi rời khỏi nhà trường họ còn tiếp tục phát triển và đóng góp khả năng
của mình cho xã hội, cho Phật giáo và cho cả nhân loại.
Hoạt động xã hội của TNS là định hướng giáo dục một cách khách quan và
thiết thực trong vai trò hình thành nhân cách của TNS, đem lại một phần
giá trị và ý nghĩa đích thực trong việc xây dựng sự nghiệp giáo dục ở
các trường Phật học. Chính sự tham gia hoạt động xã hội của TNS là hình
ảnh trực tiếp đối với công việc truyền bá Phật giáo và đưa Phật giáo áp
dụng vào cuộc sống nhân sinh; hình ảnh của TNS ảnh hưởng trực tiếp trong
quá trình hoạt động đối với xã hội.
Một trường Phật học phải đẩy mạnh và tạo điều kiện thuận lợi để mở
rộng phạm vi giáo dục của mình ra ngoài xã hội thông qua việc đào tạo và
xây dựng các chương trình hoạt động xã hội cho TNS, để giúp TNS có cơ
hội tiếp cận với thực tế, là tác nhân kích thích trực tiếp bổ sung và hỗ
trợ giáo dục đối với môi trường xung quanh. Một nhà máy không thể ngắt
quảng tiến trình sản xuất mà có sản phẩm hoàn thiện được, cũng thế một
trường học cũng không đào tạo được con người hoàn thiện nếu không kích
thích được giáo dục bằng cách tổ chức và tận dụng thời gian trong lúc
đang còn đi học của TNS. Như vậy, một ngôi trường chỉ có thể hoàn thành
nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp giáo dục cao cả ở thời hiện đại khi và
chỉ khi giáo viên và học sinh có sự kết nối với nhau thực sự, có tư duy
trong sáng và có tính phê phán, lí giải có sáng kiến và độc lập, bi ết
gánh vác trách nhiệm, thực hành cái tốt đẹp, tâm hồn cao thượng và thân
thể mạnh khoẻ. Trong những dự hướng như thế thì chỉ có hoạt động xã hội
của TNS mới có thể giúp được nhiều.
TS. THÍCH THIỆN CHÁNH (HVPGVN tại Huế)