Có hai dòng truyền hệ thống duy thức vào Trung Hoa. 1. vào năm 513
bởi Bồ Đề Lưu Chi mang vào, đưa đến sự thành lập trường phái Thế Luận
vào năm 563. và 2. Bởi Ngài Chân Đế đưa đến sự thành lập trường phái
Nhiếp Luận. Đến năm 659 ngài Huyền Trang đã thiết lập sự phát triển của
trường phái Pháp Tướng Tôn hay còn gọi là Duy Thức Tôn.
Suốt từ năm 508-512 AD, Ba Tăng sĩ người ấn độ là Lặc Na Ma Đề( Ratnamati) Bồ Đề Lưu Chi và Phật Đà Phiến Đa( Buddhasanta)
đã dịch Thập địa Kinh Luận và một bản luận giải trên tác phẩm này của
Ngài Thế Thân. Trên tác phẩm này trường phái Tam Luận Tông được thành
lập. Vào năm 513 Bồ Đề Lưu Chi đã bắt đầu dịch bộ kinh Lăng Già. Trong
lúc đó Bồ Đề Lưu Chi và ngài Lặc Na Ma Đề có một vài sự bất đồng trên
nguồn gốc triết lý của Thập Địa Kinh Luận, điều đó dẫn đến sự chi rẻ
trong trường phái này. Đệ tử của Bồ Đề Lưu Chi là Ngài Tao-Chung đã phát
triển lời dạy của thầy mình đến phía bắc của thành phố có tên là Quảng
Châu. Nhánh này được biết như là Tam luận tông miền Bắc. Huệ Quảng (
467-536) đệ tử của Ngài Lặc Na Ma Đề đã giải thích quan điểm của thầy
mình ở phía nam của Quảng Châu, nhánh này được biết như là trường phái
Tam luận tông miền Nam. Tam Luận tông phía bắc có thể nói được phồn
thịnh sớm hơn vì Tao-Chung là một đại sư nổi tiếng của trường phái này
và thâu nhận hàng ngàn đệ tử. Tuy nhiên, về sau ảnh hưởng của ngài không
được nhiều người biết đến. Trong khi đó, Tam Luận Tông phía nam có học
trò của ngài Huệ Quảng là Pháp Thượng ( 490-580) và học trò của Pháp
Thượng là Huệ Viễn ( 523-592) trở thành nhân vật nổi tiếng của trường
phái này.
Tam Luận Tông biện minh trên giáo lý duy thức rằng những gì được
hiểu biết của thế giới bên ngoài là do thức, cấu trúc của bảy thức ( mạt na và tiền lục thức)
có nhiệm vụ ủng hộ thức thứ 8 alaya. Và thừa nhận thức thứ 8 alaya như
là thức chân thật trong khi đó bảy thức trước như là thức không thật.
Trong lĩnh vực của thức alaya cốt lõi của của sự còn lại là không biến
đổi trong mọi thứ thay đổi, nó là phương diện tuyệt đối của vũ trụ,
lĩnh vực hoạt động hay sự biểu hiện của alaya thức là phương diện của
vũ trụ. Thế giới hiện tượng biểu hiện bị nhiễm ô hay trong sạch tùy
thuộc trên sự nhiễm ô hay trong sạch của alaya thức. Trong điều kiện
alay thức bị nhiễm ô thì nó dính líu đến hạt giống ô nhiễm. Trong điều
kiện thanh tịnh alay thâu nhận đạo đức theo sau sự tu tập và trở nên
giải thoát ra khỏi các điều ô nhiễm.
Diểm tranh luận ở hai nhánh của Bắc và Nam Tam Luận Tông là sự liên
hệ giữa bảy thức và như lai tạng. Tam luận tông phía bắc cho rằng alaya
thức là giả và riêng biệt với như lai tạng. Tam luận tông phía nam
trên khuynh hướng khác xem alaya thức như là sự thật và đồng nghĩa với
như lai tạng.
Lý thuyết về tâm thanh tịnh được biện minh bởi Tam luận tông và
Nhiếp Luận tông được rút ra từ Đại Phương quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (
Tathagatagarbha sutra) được dịch sang tiếng hoa đi cùng với giáo lý duy thức. Thắng Man Kinh ( Srimaladevisimhanadasutra) và Bảo Tánh Luận ( Ratnagotravibhagasatra)
được dịch bởi ngài Gunabhadra và Lặc Na Ma Đề theo thứ tự. Như Lai
tạng là bản chất thanh tịnh của tất cả tâm thức, vì bị ảnh hưởng của vô
minh nó tạo ra thế giới hiện tượng thay đổi nhưng bản chất thật sự của
nó là thanh tịnh. Chơn như hay như lai tạng chính là tâm thanh tịnh.
Trong một cái nhìn khác alaya thức là trong sạch trong bản chất nhưng
lại là không trong sạch trên phương diện hiện tượng vì hoạt động của nó
dính líu đến vô minh và cất chứa bên trong nó hạt giống nghiệp của tất
cả sự phân biệt. Quan niệm về sự đồng nhất về sự đồng nhất của alaya
thức và như lai tạng được diễn tả trong kinh Lăng Già. Quan điểm của
Tam luận tông và nhiếp luận tông được nối lại thành một hệ thống từ
giáo lý duy thức. Tam luận tông sau này nhập vào trường phái Nhiếp Luận
tông.
Trường phái Nhiếp luận Tông được thành lập bở ngài Chân đế ( Paramartha)(499-569)
căn bản trên bộ Nhiếp Đại Thừa Luận. Tác phẩm này cũng được chú giải
bởi ngài Thế Thân. Nhiếp đại thừa luận được dịch vào tiếng Hoa bởi ngài
Chơn Đế vào năm 563 AD và Ngài Huyền Trang suốt từ năm 648-649 AD. Từ
bản dịch của Ngài Chơn Đế trường phái Nhiếp Luận được phát triển ở
trung hoa. Ngài đã viết được 40 tác phẩm. Sau này đệ tử của ngài Chôn
đế đã mang lời dạy của Nhiếp Luận viết ra nhiều sớ giải.
Giáo lý Nhiếp Luận tông gồm có 10 chương liên quan tới thức alaya,
tam tự tánh, lục độ, 10 cấp độ tu của bồ tát, quan niệm về đạo đức,
thiền định, trí tuệ tuyệt đối, vô phân biệt trí, tam thân Phật…
Tính đặc trưng của Nhiếp Luận Tông là sự lý giải về thức alaya. A
laya là căn bản thức từ nó mà mọi thứ trên thế gian và những sự kiện
được phô bày và biểu hiện. tất cả mọi hiện tượng đều có nguồn gốc hạt
giống thanh tịnh hoặc bất tịnh nó là nhân quả được kết hợp với alaya.
Alaya là sự hiện hữu của sự kết nối nhân quả . Nhiếp luận tông đã thừa
nhận sự hiện hữu của amala thức đi cùng với 6 thức giác quan, thức thứ
bảy là trung tâm chấp trước và alaya thức. alaya là sự một sự lừa gạt
khi tất cả mọi hiện tượng bao gồm bảy thức được bắt nguồn từ những hạt
giống trong alaya. Tuy nhiên, bản chất của alaya thức là thanh tịnh
trong sạch, đó chính là thức thứ 9 amala thức. Trong trạng thái này,
alaya thức như là là trung tâm của sự dính mắc nhưng bị tan vỡ vào thanh
tịnh, bản thể tâm được nhận ra. Đây là trạng thái của niết bàn hay
chơn như.
Trường phái Tam Luận Tông và Nhiếp luận Tông sau này sát nhập vào Pháp Tướng Tông ( Fa- Hsiang).
Chữ ‘Fa’ có nghĩa là Pháp hay nguyên tố của sự hiện hữu và Chữ
‘Hsiang’ nghĩa là bề mặt hay tướng. Pháp tướng ám chỉ đến hiện tượng và
phát triển của chính nó vào trong hiện tượng, nó cũng là học tuyết duy
tâm bắt đầu từ hiện tượng cho nên học thuyết này cũng gọi là duy thức
nghĩa là chỉ có thức biến. Ngài Huyền Trang đã học được học thuyết này
từ ngài Giới Hiền tại trường Đại học Nalanda. Học thuyết duy thức được
giải thích bởi ngài Hộ Pháp và giải thích tỉ mĩ hơn bở Ngài Huyền Trang
trong tác phẩm Thành Duy Thức Luận vào năm 659 AD. Trên căn bản của
Thành Duy Thức Luận, đệ tử của Huyền Trang là Khuy Cơ ( 652-682) đã
thành lập Pháp tướng tông. Năm tác phẩm quan trọng của Khuy Cơ được xem
như là những tác phẩm cơ bản của trường phái này. Đó là: Thành Duy
Thức Luận Tập Ký, Pháp Phạm Nghĩa Lâm Chương, Duy Thức Khu Yếu, Duy
Thức Biệt sao, Duy Thức Liệu Giảng.
Trên căn bản giáo lý duy thức của Duy thức tam thập tụng và duy thức
nhị thập tụng của Thế Thân. Ngài Huyền Trang tuyên bố rằng không có
thế giới bên ngoài riêng biệt từ thức, thế giới bên ngoài được phát
khởi từ thức và thức bên trong biểu hiện chính nó như là sự thật. Huyền
Trang giải thích rằng điểm đặc trưng của các trạng thái khác nhau về
tinh thần và thể chất hiện hữu là do sự biểu lộ của Tám thức: Alaya,
Mạt Na và Tiền lục thức. Tám thức đều riêng biệt, chúng hoạt động tùy
thuộc trên nhân duyên và điều kiện. Để hiểu biết sự vật thức phân chia
làm 4 phần: Kiến phần, tướng phần, tự chứng phần và Chứng tự chứng phần.
Đây cũng là tính đặc biệt của Pháp tướng.
Trong Pháp Tướng tông, alaya thức là thức chứa đựng những hạt giống
được vun trồng bởi bảy thức trước và nó trở thành năng lực trong sự
biểu lộ, nó tiếp tục tồn tại mà không bị gián đoạn vì kiến phần của nó
bị dính líu bởi Mạt na thức. Alaya nhiễm ô tức hiện tượng cũng bị nhiễm
ô, alaya thanh tịnh tức là bản tánh tự nhiên của mọi thức là chơn như
là sự thật sau cùng , nó vượt ra ngoài khái niệm và sự giải thích.
Trong pháp tướng tông, thế giới hiện tượng la tướng của pháp là khác
biệt chân lý bản tánh tự nhiên của vạn pháp.
Để hiểu đúng về tánh không của vạn pháp, pháp tướng tông đã chia sự
hiện hữu của thế giới vào 5 loại bao gồm 100 pháp. Đó là tâm vương có 8
món, tâm sở có 51 món, sắc pháp có 11 món, tâm bất tương ưng hành có
24 món và vô vi pháp có 6 món, chi tiết được diễn tả trong Thành Duy
Thức luận.