Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình. Khác với
những đạo sĩ mà phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là một
người Ai Cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách
núi.
Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của Tiến sĩ
Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư
có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác
áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai Cập.
Có các cõi khác nhau sau khi chết, theo nguyên lý Á đông
Giáo sư Evans-Wentz vào đề:
- Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…
Pháp sư thản nhiên:
- Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.
- Như thế, ông tin rằng có ma…
Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết:
- Đó là một sự thật. Không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn là đối tượng nghiên cứu của tôi.
- Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật?
- Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người
thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông
thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ
đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu
chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có
lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng?
- Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên …
- Được lắm, các ông hãy nhìn đây.
Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả:
- Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.
Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì. Giáo sư Mortimer sốt ruột:
- Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm
thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao?
Vị pháp sư nghiêm giọng:
- Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển
tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải
chỉ có một cõi này.
Khi chết, ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác
nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là
“dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác.
Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi
người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương
ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại,
lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng
giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở
trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng
nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới
tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây
một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con
người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên
trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác.
Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con
người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như
một quả bóng bay bị cột vào những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao
thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào,
thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ
bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất
hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bã xã hội,
những kẻ có tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tính. Vì ở cõi âm không có
thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tính
mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú.
Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ
sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh
này luôn oán hận, ham muốn, thù hằn và thường tìm cách trở về cõi trần.
Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ
nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói khát
quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm
những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người
ăn uống ngon lành, họ có các rung động khoái lạc và loài ma tìm cách
hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi
giục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục
tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái
lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng
rượu và các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự
chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để
hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thỏa mãn nên
theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng
tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao
hơn và sẽ thăng lên cõi giới tương ứng.
Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở
cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống,
tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới
tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương
cầu”.
Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai Cập đã diễn tả
bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viển
vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh
được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng
như người châu Á chăng?
Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người:
- Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp Đại học Oxford…
Giáo sư Harding giật mình kêu lên:
- Oxford ư? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao?
- Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai Cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này[1].
- Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu?
- Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong
nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình
(metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học,
nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi
đến với Khoa Huyền Bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai
Cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng
ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn Độ và Tây Tạng. Tại
đây
tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất
nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở
được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì
tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc. Tôi kết
bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.
Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng:
- Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma?
- Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi
có rất đông bạn bè, phần lớn là vong linh người quá cố nhưng cũng có một
vài sinh vật có đường tiến hóa riêng, khác với loài người. Có loài khôn
hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…
- Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không?
- Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những
luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm
kiến thức rõ ràng…
- Như thế có nguy hiểm không?
- Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số
thầy phù thủy thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh
hoặc thư phù, nguyền rủa…
- Ông có thể làm như vậy không?
Vị pháp sư nghiêm mặt:
- Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo
hóa đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều
tối kỵ của những ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những
loại vong linh này vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết
chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một nhà
khoa học chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thủy chữa bệnh.
- Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.
- Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định
luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể: thể lỏng, thể đặc và thể
hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho
thấy vật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình
cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần,
các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử
nặng trược.
Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác
nhau; có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới. Các nguyên tử rung động
chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm
nó tan vỡ ngay. Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ
sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại
sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt
biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống
ở dưới đáy cũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác
nhau.
Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm nặng nề với các vong linh hình
dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị
lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dục vọng
hành hạ mà không thể thỏa mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong
linh thèm muốn nhưng không sao thỏa mãn được, như đói mà không thể ăn,
khát mà không thể uống. Do đó, theo thời gian nó sẽ học bài học chịu
đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì sẽ được
thăng
lên cảnh giới thứ sáu.
Cảnh giới thứ sáu có sự rung động rất giống như cõi trần. Tại đây các
vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm
với những nhỏ nhen của cuộc sống như thỏa mãn bản ngã, ích kỷ, ghen
tuông, hờn giận, v.v. Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng
lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần
nên họ hay trở về cõi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ,
cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyên vu vơ nhằm thỏa mãn tự ái, bản
ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng,
chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là
các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố
chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ
năm.
Cảnh thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong linh có
thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm
thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham
muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi
cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến,
những người trí thức tự phụ, v.v. Đây cũng là cõi có những sinh hoạt
của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô hình có hình
dáng
hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ
địa (gnome), Phong tinh (elves)....Một số bị thu phục bởi các phù thủy,
pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện diện của
những “hình tư tưởng”. Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng
phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng
thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay
yếu. Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra
ít lâu là tan rã ngay. Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một
hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày.
Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm
hay cả thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến
của ông ta. Các phù thủy luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu
tạo một sinh vật vô hình để sai khiến. Hình tư tưởng không chỉ phát sinh
từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi
một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng
của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô
cùng
rộng lớn đối với tình cảm, phong tục, thành kiến của quốc gia, dân
tộc. Ta có thể gọi đó là “hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”. Khi
sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng
này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm của dân
tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý
trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại
sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ trong khi dân tộc khác lại
có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa
nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục,
tập quán.
Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này rung
động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hóa, thánh thiện, những
nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều
thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu
cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh
hưởng lẫn nhau, và đôi khi kết những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong
một gia đình hay quốc gia.
Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung động nhẹ nhàng. Tại đây có
những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu
trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một
cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảm dục thiên thần
(Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần
(Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hóa cao hơn trình độ
của nhân loại.
Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức
thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới
mà những người tiến hóa rất cao, rất tế nhị, không còn dục vọng và ham
muốn lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phát triển các đức tính
riêng trước khi siêu thoát lên cảnh giới cao hơn. (Còn tiếp)
Theo Hành trình về Phương Đông