Một
người trong nhóm liên tiếp gặp tai ương, gia đình ly tán bỏ làng đi
lang thang không biết còn sống hay chết; người dật dờ sống với cảm giác
luôn có những “bóng ma” bám mình.
“Ma
ám” chỉ là những lời đồn thổi, nhưng sự dằn vặt lương tâm đến phát điên
thì có thật với những chàng trai lỡ dại có hành vi táng tận lương tâm
này...
Ngôi mộ bí ẩn
Nằm
bên dòng sông Nhuệ, làng Từ Châu (xã Liên Châu, huyện Thanh Oai, Hà
Nội) có cuộc sống luôn bình lặng như dòng Nhuệ Giang hiền hòa chảy quanh
làng. Thế mà cách đây hơn chục năm, đã xảy ra một vụ án " khủng khiếp"
còn được kể cho đến tận bây giờ. Không có đốt nhà giết người, không máu
chảy đầu rơi, nhưng đó là tội ác thuộc loại táng tận lương tâm: Đào trộm
mồ mả, làm cho người chết cũng không được yên thân.
Bấy
giờ, trên cánh đồng làng ở sát chân đê từ lâu đã hiện diện một ngôi mộ
không người thân thích cũng chẳng có bia đá ghi tên tuổi. Theo các cụ
cao niên trong làng thì đó là ngôi mộ cổ đã có từ hàng trăm năm nay.
Không nắm rõ xuất xứ nhưng các cụ cả quyết người nằm dưới mộ là một vị
quan thời xưa trên đường công cán về qua đây thì mắc bạo bệnh qua đời.
Cũng
có lời đồn thổi rằng vị quan đó rất giỏi về phong thủy, qua đây thấy
nơi này có thế đất đẹp nên quyết định "hóa", rồi sai gia nhân chôn mình
theo đúng phương vị "tựa núi nhìn sông", để sau này có thể phù hộ cho
con cháu được phát đạt. Tất cả những lời đồn đại giống như thần thoại ấy
đều dẫn đến một điểm chung là ngôi mộ của vị quan nên có lẽ dưới mộ sẽ
có rất nhiều cổ vật và đồ quý.
Nhưng
chỉ là đồn đoán vậy thôi, truyền thống ngàn đời của dân tộc là tối kỵ
việc xúc phạm nơi ở của người đã khuất nên ngôi mộ vẫn cứ sừng sững giữa
đồng, tưởng như sẽ mãi mãi cùng năm tháng.
Cho
đến năm 1999, có hai gã thanh niên sinh ra và lớn lên ở làng trong cơn
quẫn bách vì nợ nần cờ bạc đã “ngắm nghía” đến những của cải nằm trong
ngôi mộ cổ. Đó là 2 chú cháu họ Nguyễn Minh T (SN 1977) và Nguyễn Duy T
(SN 1975).
Cổng vào ngôi làng nơi có nhóm thanh niên phát điên sau khi đào trộm mộ.
Một
buổi chiều mùa đông năm 199 gió lùa hun hút, mưa lay lắt bay, lợi dụng
tiết trời rét mướt nên người đi làm đồng thưa thớt, hai chú cháu lỉnh
kỉnh mang theo nào cuốc, nào xà beng, nào búa, men theo bờ ruộng áp sát
ngôi mộ. Có sự tính toán từ trước nên hai gã không hề vội vã. Cứ vắng
người là hai chú cháu chồm lên cuốc đất vạt cỏ. Có bóng người lại nằm
bẹp xuống chân mộ náu mình.
Đến sẩm tối, phần nấm của ngôi mộ đã bị đánh bay. Hai gã trộm buông cuốc nghỉ lấy hơi, cũng là để chờ trời tối hẳn.
“Kho báu” ảo, sợ hãi thật
Khoảng
6 giờ chiều mùa đông cảnh vật đã ngập trong màn tối, cánh đồng tịnh
không còn một bóng người. Hai gã trộm lúc này mới bắt đầu đào, cuốc hối
hả. Chẳng mấy chốc cái nắp áo quan trăng trắng đã lộ ra, lạ thay đã bị
mẻ một góc to tướng.
Không
kịp suy nghĩ nhiều đến điều này, hai gã dùng xà beng và búa giáng xuống
thật lực. Vừa nhìn thấy cỗ áo quan dài gần gấp đôi kích thước bình
thường, hai gã trộm đã mừng “như mở cờ trong bụng”. Đúng là ngôi cổ mộ.
Bởi quan tài được làm từ thân cây nguyên khối, khoét ở giữa giống hình
chiếc thuyền, gọi là mộ thuyền, một đặc trưng khi chôn cất người chết
của các gia đình quyền thế thời phong kiến.
Hai
gã trộm như được tiếp thêm sức mạnh, lùa xà beng để nạy nắp ván thiên.
Phần nắp dày có đến chục phân, được thợ mộc lành nghề làm mộng "chìm"
nên rất chặt. Nhiều chỗ, hai gã trộm phải dùng lưỡi búa làm nêm, rồi tì
xà beng theo mà bẩy. Trong lúc vội vã lại mệt mỏi, gã chú Minh T đã đánh
trượt lưỡi xà beng, phá vỡ một miếng ở phần đầu, bên trái cỗ mộ thuyền.
Hì
hục đến gần 3 tiếng đồng hồ, hai gã trộm cũng cạy xong được nắp ván
thiên. Hai chú cháu nhảy ào xuống huyệt ngập nước thò tay khua khoắng.
Không có gì cả. Chỉ dọc theo phần đầu của bộ xương, chúng mò được 6
chiếc bát mà phong tục chôn cất vẫn gọi là bát kê đầu. Có lẽ vì ngâm
nước quá lâu nên thành bát đã có hiện tượng mủn nát.
Chán
nản, gã cháu Duy T vớt vát: "Bộ xương màu xám lạ lắm. Hay là chú cháu
mình nhấc thử lên xem có phải kim loại không, may ra còn được chút
tiền". Thế là hai gã trộm hè nhau nhấc bộ xương lên khỏi mặt nước, để
rồi thất vọng vẫn hoàn thất vọng.
12
năm sau, khi thuật lại câu chuyện với chúng tôi, gã thanh niên đào trộm
mộ vẫn nổi gia ốc, mắt như lồi ra vì sợ hãi: “Đúng lúc ấy, tôi cảm thấy
tóc gáy dựng đứng. Cảm giác ớn lạnh ập vào từ gót chân chạy dọc lên tận
đỉnh đầu. Hình như có ai đó đứng sát sau lưng”. Gã quay phắt lại. Chỉ
là màn đêm đen kịt.
Gã
quát cháu đậy nắp áo quan, mặc cho thằng cháu đứng ngây người thắc mắc:
“Ai đời kẻ đi đào trộm mộ lại "tử tế" đắp trả mộ bao giờ?”.
12 năm “ma ám”
Giờ
đây, Nguyễn Minh T đang ngồi trước chúng tôi, kể lại câu chuyện dại dột
ngày xưa. Dù rất giận vì gã đã phạm vào một tội ác tày trời nhưng nhìn
nét mặt thất thần của gã, chúng tôi không khỏi thương cảm. Minh T nói
rằng cảm giác có người đi sau lưng đã luôn ám ảnh gã suốt 12 năm nay. Và
chừng ấy thời gian, gã không làm được việc gì ra hồn cho bản thân cũng
như cho gia đình, bởi cảm giác bị trì kéo ấy.
Hôm
đó, sau khi giao cho thằng cháu sáu chiếc bát để đi tìm người mua, Minh
T trở về nhà tắm rửa. Tầm 9h30 tối, khi đang xỏ giày chuẩn bị đi chơi,
gã bỗng rùng mình ngẩng lên. Sừng sững sau liếp cửa có hình bóng của 3
người đàn ông. Họ đều có bộ râu dài và mặc áo dài khăn đóng như thời
phong kiến.
Minh
T có cảm giác bị đè chặt dưới đất. Không thể nói cũng không thể cử
động, gã chỉ ú ớ kêu cứu trong cổ họng. Minh T nói rằng có thể gã đã
chết nếu mẹ gã không có mặt kịp thời. Thấy con trai nằm lăn dưới đất
giãy giụa như trúng phong, bà mẹ vội dìu gã lên giường, giã gừng xoa
bóp. Gã ốm liệt giường gần một tháng trời. Trong những cơn ác mộng của
hắn luôn xuất hiện hình bóng 3 người đàn ông ấy.
Sau
này Minh T mới biết hành trình đi bán “đồ cổ” của thằng cháu mình. Qua
vài đầu mối, thằng cháu liên lạc được với một người chuyên buôn bán đồ
cổ có biệt danh Thảo "đồ cổ" ở phố Lê Duẩn (Hà Nội). Tuy khẳng định là
đồ cổ nhưng do hiện trạng bát đã bị mủn, con buôn chỉ trả cho 6 chiếc
bát giá 60 ngàn đồng. Vào năm 1999, số tiền ấy cùng lắm chỉ đủ ăn 10 bát
phở. Sợ bị hố, thằng cháu mang bát về. Trên đường về thì gã bị
tai nạn xe máy, tuy không bị thương nặng nhưng toàn bộ “kho báu” đã vỡ
vụn ra như đất.
Đêm
ấy về làng thì thấy ông chú đã ốm “thập tử nhất sinh”, thằng cháu táo
tợn bực mình vì công sức thành công cốc, lại túng quá hóa liều nên tiếp
tục mò vào chùa làng, trộm cắp được mấy đạo sắc phong, hai cái đỉnh đồng
cùng một khúc trầm. Khi đang tiêu thụ những vật đó thì hắn bị bắt. Gã
bị kết án 5 năm tù. Minh T cho biết đã lâu không gặp được thằng cháu.
Gia đình thằng cháu giờ tan đàn xẻ nghé, bố mẹ chia tay, anh em
ly tán, Duy T sau khi ra tù cũng bỏ làng đi đâu không rõ. Minh T quả
quyết: “Nhà nó bị người âm “báo oán”.
Riêng
với Minh T, gã cảm nhận sự “báo oán” hàng ngày. Mọi việc gã làm theo dự
tính ban đầu đều rất suôn sẻ nhưng đến phút cuối cùng, vì một lý do nào
đó sẽ lại đổ bể. Gã chứng minh rằng vào năm 2001 đã hùn vốn theo một số
bạn bè đánh hàng điện lạnh. Mấy xe của bạn bè gã đều trở về bình yên,
đem lại lợi nhuận không nhỏ. Chỉ riêng xe hàng của gã về đến Bắc Ninh
thì gây tai nạn chết người. Xe bị giữ, hàng mất, bao vốn liếng
cho vụ đi buôn hết sạch.
Rồi
đơn giản như việc ăn uống hàng ngày. Ví dụ như gã nấu bát mì ăn liền,
mọi thứ tinh tươm, chỉ việc mang đũa thìa ra để ăn. Nhưng rất nhiều lần,
đến lúc chuẩn bị ăn thì gã quờ tay làm đổ. Đến nỗi bây giờ, hầu như
Minh T chỉ ăn hàng, rất hiếm khi dám tự nấu nướng cho mình.
Nhưng
tai ương nặng nề nhất giáng xuống Minh T là năm 2006. Sau khi dự đám
giỗ ông nội, đi chơi với bạn bè, em trai gã (SN 1980) đã chết trong một
tan nạn giao thông trên cầu Thăng Long. Khi đến nhận thi thể em, Minh T
kinh hoàng bởi vết thương trên đầu em trai cũng ở phía bên trái, tròn
vo, giống hệt như vết xà beng gã nện nhầm vào thành cỗ mộ thuyền. Không
dám nói với người thân nhưng gã cứ ám ảnh rằng em trai "ra đi"
thay cho gã. Rồi khi mời thầy về làm lễ cắt trùng (Theo quan niệm dân
gian, gia đình có 2 người mất cùng ngày trong năm là bị trùng tang, phải
làm lễ cắt trùng) ông thầy phán gã “có người âm đi theo, không làm lễ
tạ thì mãi mãi không ngóc đầu lên được”.
“Tòa án” lương tâm
Đem
theo ngờ vực về những liên tưởng “người âm báo oán”, chúng tôi tìm về
thôn Từ Châu. Trưởng thôn Nguyễn Xuân Thủy khẳng định chuyện ngôi cổ mộ
có hình dáng mộ thuyền và đã từng bị đào trộm là có thật. Ông cũng cho
rằng vùng đất có cổ mộ rất linh thiêng, nhiều người từng chứng kiến.
Theo ông Thủy, cách đây ít năm khi xẻ đất đào mương gần cổ mộ để làm
trạm bơm thủy lợi, người làng đã từng chứng kiến cảnh tượng không thể
lý giải. Mạch nước ngầm khi đó chảy ra có 5 màu: đỏ như máu, tím biếc,
đục lờ lờ như sữa, nâu óng ánh như kim cương và cuối cùng, trong suốt
như nước suối. Những người tham gia làm thủy lợi đã phải dừng một ngày
biện lễ tạ, rồi mới dám tiếp tục công trình.
Nhà
ngay gần ngôi cổ mộ khi chúng tôi tìm đến, bà lão có tên Nhị kể câu
chuyện chẳng rõ thực hư “không chỉ mình tôi, nhiều người làng cũng đã
nhìn thấy “ngài” về". Theo bà Nhị, vào những đêm trăng thanh gió mát,
hoặc thi thoảng vào giữa trưa những ngày đẹp trời, bà nhìn thấy bóng
hình một ông quan cưỡi ngựa, theo sau là 3 người hầu, đi thong dong dọc
bờ mương rồi mất hút gần nơi cổ mộ. Mỗi lần như thế, bà vẫn mang hương
hoa vái vọng, mong ngài phù hộ cho xóm làng yên ấm, an vui. Chẳng rõ
bà lão mê tín nên tưởng tượng, hay hoa mắt nên “nhìn gà hóa cuốc”?
Ngôi
mộ cổ sau ngày bị đào trộm thì chính quyền xã thậm chí đã cắt cử người
canh trạm bơm “kiêm nhiệm” luôn nhiệm vụ gìn giữ ngôi cổ mộ để làng khỏi
xảy ra những chuyện động trời. Ông lão thủng thẳng: “Giờ khỏi mất nhiều
công canh gác như trước. Có cho tiền cũng chẳng ai dám đến”. Bởi sau vụ
"dòng nước có 5 màu", ai cũng sợ “xanh mắt mèo”. Ngôi mộ cổ giờ nằm an
nhàn giữa mương nước, trông xa như một hòn đảo nhỏ. Thậm chí
người làng còn không dám trồng trọt gì quanh đấy, sợ “phạm vào ngài”.
Trở
lại câu chuyện với Minh T, gã đào trộm mộ năm nào luôn cho rằng mình
còn được sống bởi hai lý do. Thứ nhất, lúc bạt nấm, nắp mộ lộ ra đã bị
mẻ một góc. Theo Minh T thì cổ mộ đã bị đào phá từ trước rồi và những kẻ
“nhanh chân” đã luồn tay qua lỗ hổng và khoắng hết các vật quý. Chú
cháu gã chỉ là kẻ đến sau, chẳng kiếm chác được gì nên “nhẹ tội” hơn. Lý
do nữa là chú cháu gã đã thành khẩn đậy lại nắp áo quan. Minh T kể
rằng, nắp áo quan gắn với phần thân bằng mộng chìm, tháo ra được nhưng
đóng lại thì rất khó. Chú cháu gã đã phải dùng búa đánh vỡ hết các thó
gỗ ở chân mộng, và phải rất vất vả mới đậy được nắp áo quan như cũ.
Chẳng
biết an ủi như thế nào, chúng tôi chỉ biết động viên gã “dù sao anh
cũng còn may mắn khi sự việc chưa nghiêm trọng đến mức cơ quan chức năng
vào cuộc điều tra; hành vi xâm phạm mồ mả của anh sau 12 năm đến nay
mới phát hiện thì đã hết thời hiệu truy cứu”. Minh T nhỏ nhẹ nói gã đang
rất ăn năn hối cải. Gã nói rằng chỉ mong ai đó chỉ cho cách sửa lễ để
về tạ tội với người trong ngôi cổ mộ. Gã không dám tự tay biện lễ
bởi theo gã, nếu làm không đúng cách thì tội còn nặng hơn nữa.
Ám
ảnh về tội ác đã dằn vặt khiến Minh T trở thành người không bình thường
như thế. Nhiều người làng biết chuyện thì cho rằng chẳng có con ma nào
theo những thanh niên này “báo oán”, mà chỉ có quy luật cuộc đời: Cái ác
sẽ luôn bị trừng phạt. 12 năm nay đi tìm lại sự thanh thản cho tâm hồn
mà chưa thấy bình yên, nên chính những day dứt lương tâm đã dằn vặt
những kẻ phạm tội “tày đình” này sống trong cảnh “sống dở, chết
dở”.
Nhà sử học Lê Văn Lan
“Ngay
từ thời phong kiến, các nhà làm luật xưa đã có những hình phạt rất
nghiêm khắc với tội danh đào trộm mồ mả, xúc phạm đến thân thể người
chết.
Bộ
luật Hồng Đức được ban hành vào khoảng thế kỷ 15 dưới thời vua Lê Thánh
Tông, ở điều 443 đã quy định về tội danh này. Theo đó, tội trộm cắp đồ
vật nơi mồ mả và tội xâm phạm mồ mả, hài cốt, có thể bị đánh trượng hoặc
xử lưu đày. Những trường hợp nghiêm trọng như xâm phạm mộ phần của
vương tôn quý tộc, đào mồ mả với mục đích trả thù đê hèn, hoặc có hành
vi hành hạ thi thể người đã khuất, luật Hồng Đức quy định có
thể xử phạm nhân tội chặt đầu.
Sau
đó mấy trăm năm, tháng 7 năm Nhâm Thân, Gia Long thứ 11 (1812) bộ luật
Gia Long ra đời cũng phán xử rất nghiêm khắc với tội danh này. Theo đó,
“kẻ nào xóa bỏ hay đào một nấm mồ, một ngôi mộ đến mức nhìn thấy quan
tài hoặc quách thì phạt 100 trượng, đày đi xa 3.000 dặm. Kẻ nào mở quan
tài đến mức thấy thi hài sẽ bị xử thắt cổ””
|
Theo Pháp luật & Thời đại