Các
lý thuyết tôn giáo cũng như các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra những lý
giải khác nhau về nguồn gốc xuất hiện của con người trên trái đất này.
Phải chăng con người là sản phẩm do Thượng Đế tạo dựng hay chỉ là một
giống vượn người trải qua một chuổi quá trình tiến hoá lâu dài rồi biến
thành người theo thuyết tiến hoá của Darwin? Trước vấn đề này, Phật giáo
vốn tin tưởng vào thuyết tái sanh, luân hồi, cho rằng tất cả các loài
chúng sanh luôn quanh quẩn trong vòng luân hồi sinh tử (samsâra), và
được tái sinh qua bốn cách thế khác nhau: noãn sinh – andaja, tức là sự
sanh ra từ trứng; thai sinh – jatâbuja, tức là sanh ra từ bào thai của
người mẹ; thấp sinh – samsedja, tức là sanh ra từ sự ẩm thấp hay từ rịn
rỉ của các thành tố, đất, nước v.v… ; và hóa sinh – oppâtika, tức là do
hóa hiện mà sanh ra, không phải trải qua các giai đoạn phôi thai; những
con người đầu tiên là những chúng sanh thuộc loại hoá sinh này.
Cho dù khoa học ngày càng tiến bộ, đặc biệt là trên lãnh vực Sinh học
với sự khám phá DNA, đã giải mả một số bí mật trong lãnh vực Di truyền
học, cùng với những nghiên cứu sâu rộng về tế bào mầm và kỹ thuật nhân
giống (cloning), câu hỏi về nguồn gốc con người cho đến nay vẫn chưa có
lời giải đáp thỏa đáng. Tuy nhiên một điều mà chắc hẵn mọi người đều
đồng ý với nhau là, con người được sinh ra đời do kết quả của sự thụ
tinh, từ đó phôi bào được hình thành, nuôi dưỡng và nảy nở trong tử cung
của người mẹ trong một khoảng thời gian nào đó trước khi chào đời.
Chúng ta tạm thời bắt đầu từ khởi điểm này, bởi vì từ điểm cốt lỏi này,
nhân loại hôm nay đang đối diện với một vấn đề bao trùm trên khắp các
mặt lương tâm, đạo đức, luân lý, và xã hội, một vấn đề hiện vẫn còn gây
ra nhiều tranh cãi và đôi khi dẫn đến đổ máu: Phôi bào có thể xem như là
một con người? Nếu quan niệm phôi bào là một con người tại sao luật
pháp của các xã hội lại chấp nhận chuyện phá thai, không xem đó là một
tội ác sát nhân? Để ngăn ngừa tình trạng nhân mãn, trên thế giới – đặc
biệt là tại các quốc gia hiện đang bị đe dọa bởi nạn nhân mãn như Trung
quốc, Nhật Bản, Việt Nam,…- hàng năm đã có đến hàng triệu sinh mạng bị
bóp chết ngay từ khi còn là một phôi bào. Như vậy, đạo đức Phật giáo
quan niệm như thế nào về vấn đề này?
Quan Điểm của Phật Giáo Về Ngừa Thai, Phá Thai, Tái Sanh và Luân Hồi.
Trong dịp Đức Đạt Lai Lạt Ma viếng thăm Âu Châu hồi gần đây, khi tiếp
xúc với những nhà trí thức phương Tây, một số nhà khoa học Pháp đã nêu
lên câu hỏi: “Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài tin rằng vào thời điểm
nào trong quá trình thụ thai của sinh vật bắt đầu hàm chứa những hạt
mầm tinh thần hay dấu hiệu thiêng liêng của sự sống?“
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời rằng:
“Phật giáo quan niệm rằng ý thức xâm nhập vào sinh vật ngay từ
phút giây đầu tiên của sự thụ thai, bởi lẽ đó mà phôi bào vẫn được coi
như là một sinh vật. Cho nên chúng tôi xem hành động phá thai cũng giống
như việc cướp đi sự sống của một con người và dĩ nhiên đây không phải
là một việc làm chánh đáng. (1)
Quan niệm này đã được Ngài khẳng định lại một lần nữa khi người ta nêu lên câu hỏi về vấn đề kiểm soát dân số:
Thưa Ngài, quan niệm của Ngài như thế nào về việc kiểm soát sinh sản và Ngài có ý kiến gì về việc phá thai?
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời như sau:
“Để trả lời cho câu hỏi này tôi thường giải thích theo
quan điểm của người Phật tử vốn quan niệm rằng đời sống của tất cả mọi
loài chúng sanh, kể cả côn trùng sâu bọ và đặc biệt là con người, đều
rất qúy giá. Nếu nhìn vấn đề như thế thì tất cả mọi hình
thứckiểm soát sinh sản đều cần phải được ngăn cấm. Tuy nhiên những sinh
mạng qúy giá đó nay đã đạt đến một số lượng đáng kể, thế nên chúng ta
không thể không khẩn thiết kêu gọi mọi người phải quan tâm đến vấn đề
hạn chế sinh sản một cách nghiêm túc, vì đó là phương cách duy nhất để
hạn chế tình trạng gia tăng dân số. Như tôi đã từng đề cập, khi mà tài
nguyên của trái đất đang khô kiệt dần, tôi chấp nhận chuyện hạn chế sinh
sản một cách bất bạo động.
Còn phá thai là một chuyện khác, đó là một hành động sát nhân.
Truyền thống Giới Luật Phật giáo chỉ rõ rằng ta không được giết hại con
người, cho dù đó là một bào thai.” (2)
Những phát biểu của Đức Đạt Lai Lạt Ma khi trả lời cuộc phỏng vấn nói
trên, xem phôi bào như là một con người, đã phản ảnh một cách khá đầy
đủ và đúng đắn quan điểm chính thức của Phật giáo đối với các vấn đề xã
hội liên quan đến ngừa thai và phá thai. Nếu như khoa sinh vật học ngày
nay đã chứng minh rằng phôi bào là sự kết hợp của hai thành tố, tinh
trùng của người đàn ông và noãn châu của người đàn bà thì trong rất
nhiều kinh điển Phật giáo, hình thức thai sanh-sanh ra từ bào thai của
người mẹ- đã từng được đề cập đến, có thể tóm tắt như sau : “Chúng sanh
đầu thai này (Gandhabha), kẻ mang tâm thức, nhân cơ hội giao phối giữa
một nam và một nữ, nhập vào cái phôi thai được hình thành qua sự giao
phối ấy.” Như vậy, để một sự sống có thể được hình thành, trước tiên
phải có một “chúng sanh đầu thai “, thế nên ngoài hai yếu tố tinh trùng
và noãn châu, theo Phật giáo còn có một yếu tố quan trọng thứ ba, đó là
cái thức tái sanh (patisandhivinnâna), hay theo cách gọi của Đức Đạt Lai
Lạt Ma ở trên, một cái ý thức, xuất hiện ngay chính vào lúc thụ thai.
Cái thức tái sanh này là gì và từ đâu ra, tại sao lại đợi đến lúc thụ
tinh mới xuất hiện? Theo quan điểm của Phật giáo, đặc biệt là trường
phái Duy Thức học, cái ý thức này còn được mang một cái tên khác là A
Lại Da Thức, hay Tàng Thức. Tàng thức như tên gọi của nó qua suốt một
đời người đã tích lũy, dồn chứa -tức là huân tập- một số lớn chủng tử
(bija), cùng kết hợp với những chủng tữ được tích lũy từ các đời trước
tạo thành một yếu tố tâm vật lý dưới dạng năng lực. Dạng năng lực này
Phật giáo gọi là nghiệp lực trong đó một số chủng tử khi hội đủ các yếu
tố trợ duyên, và được thúc đẩy bởi lòng khát ái (tanha), tức là lòng
khao khát được hiện hữu đã làm sinh khởi, hình thành nên một đời sống
mới của chúng sinh. Như vậy, chính nghiệp hay nghiệp lực là sức đẩy
chính cho cái mầm chúng sanh đầu thai này đi tái sanh, hay nói một cách
cụ thể hơn, khi những điều kiện di truyền được thể hiện trong hoàn cảnh
thuận tiện, một hình thức tâm vật lý xâm nhập vào, và qua đó sự sống
được tiếp nối. Tiến trình này đã được đức Phật thuyết giảng trong bộ
Trung Bộ Kinh (MAJJHIMA NIKAYA,) phẩm AHATANHAKHAYA, số 38, tóm tắt như
sau: Ở nơi nào ba thành tố nguyên thủy được cấu tạo chung thì mầm sống
được gieo trồng nơi ấy. Trong sự giao hợp của cha mẹ, nếu không nhằm lúc
thọ thai của người mẹ, và không có chúng sanh đầu thai, thì mầm sống
không thể gieo trồng được. Nếu nhằm lúc thọ thai của người mẹ mà không
có chúng sanh đầu thai thì mầm sống cũng không gieo trồng được. Nếu nhằm
lúc thọ thai của người mẹ và chúng sanh đi đầu thai cũng có mặt trong
lúc giao hợp, nếu hội đủ ba nhân: tinh-trùng, noãn bào và thức, thì mầm
sống được gieo trồng: “Này các Tỳ-kheo, nơi nào có ba thành tố ấy hợp lại thì tại nơi đó một mầm sống được gieo”.
Trong ba thành tố này, thức đóng một vai trò rất quan trọng nếu không
nói là chủ yếu trong tiến trình đầu thai. Cuộc đối thoại sau đây giữa
Đức Phật và Ngài A-nan đã làm nổi bật tính cách quan trọng này:
Này A-nan, nếu cái thức này không giáng nhập vào bụng người mẹ thì tâm và thân có hình thành trong bụng người mẹ không?
Bạch Thế Tôn, không.
Này A-nan, nếu thức ấy, sau khi đã giáng nhập vào bụng người mẹ
mà lại bỏ chỗ này đi thì tâm và thức có tạo thành cái này hay cái nọ
không?
Bạch Thế Tôn, không.
Này A-nan, còn nếu cái thức này đang ở trong một bé trai hay một
bé gái khi mà các em này còn nhỏ, lại biến mất đi thì tâm và thân có
tăng trưởng, phát triển và lớn lên không?
Bạch Thế Tôn, không.(Trường Bộ Kinh,II,63_Digha Nikaya)
Với Phật giáo Tây Tạng, cái thức này còn được gọi dưới một tên khác
là thần thức. Thần thức chính là một tổng hợp của tất cả năng lực, ý
chí, khát vọng của một con người trải qua nhiều kiếp sống, và khi cái
xác thân hiện tại mà nó nương náu đi vào chu kỳ hoại diệt thì lìa bỏ đi
tìm một xác thân mới để đầu thai. Cuốn “Tạng Thư Sống Chết của người Tây Tạng”
đã mô tả một cách khá chi tiết về tiến trình lựa chọn tử cung của thần
thức trong giai đoạn thân trung ấm, còn được gọi là giai đoạn quá độ
trước khi tái sanh, xảy ra trong vòng 49 ngày sau khi ta chết. Trong
giai đoạn này, có những chúng sinh do vì nghiệp ác sâu dày, đã không
vãng sanh đến được những cảnh giới tốt đẹp sau khi lìa đời, thần thức
của họ sẽ phải lang thang đi tìm nơi chốn để đầu thai. Lúc này, do duyên
may, nếu có một vị thầy với đạo lực vững chắc ở bên cạnh, hướng dẫn
thực hiện năm phương pháp được gọi là đóng cửa tử cung, cũng có thể giúp
cho thần thức một cơ hội cuối cùng để từ chối sự tái sanh. Nếu nỗ lực
này thất bại vì có nhiều hạng người do nghiệp lực quá mạnh mẽ, đen tối
và cũng vì trong quá khứ họ là những kẻ bất lương, đã không làm được
những hành động tốt nên không thể đóng được cửa tử cung, thế nên họ đành
phải chọn lựa cửa tử cung để tái sanh trở lại.Tái
sanh trở lại có nghĩa là thần thức của người chết sẽ đi vào một trong
sáu cõi luân hồi: Trời, người, a-tu-la, súc sanh, ngạ qủy, hay địa ngục.
Lúc này, cũng theo cuốn Tạng Thư Sống Chết mô tả, các cảnh giới tái
sanh sẽ xuất hiện. Thần thức của người chết có thể trông thấy một hồ
nước, trên đó đang nổi trôi các con thiên nga đực và cái, hoặc là một hồ
nước với những con ngựa đực và cái, hay là những bầy súc vật đang gặm
cỏ trên bờ hồ, có những cây lớn chung quanh. Tạng Thư Sống Chết cảnh cáo
rằng đây là những đại lục không tốt đẹp, vì thiếu vắng tôn giáo, thần
thức không nên bước vào.
Cũng trong lúc này, những ai phải sinh làm A Tu La thì sẽ thấy, hoặc
là một khu rừng tốt đẹp, hoặc là những vòng tròn lửa xoay ngược chiều
nhau. Kẻ nào phải sinh làm súc sanh, sẽ thấy những hang đá, những lỗ sâu
trong đất. Kẻ nào phải sinh làm ngạ qủy sẽ thấy những đồng bằng hiu
quạnh, trống trơn, những hang động ít sâu, những rừng thưa trong rừng
cấm, những vùng đất đầy rừng. Vào đó, sinh làm ngạ quỷ, sẽ phải chịu đói
rét và đau khổ. Còn những người nào phải thác sinh vào cỏi địa ngục, sẽ
nghe những tiếng như những lời than vãn và sẽ bị lôi kéo vào một cách
không cưỡng lại được. Sẽ hiện ra những khoảng tối mù mịt, những nhà đen
và trắng, những lỗ đen ngòm trong đất, những con đường tối om mà người
ta sẽ phải đi theo. Vào đó tức là vào cảnh giới địa ngục, người ta sẽ
phải đau khổ vì quá nóng hoặc quá lạnh và phải chịu đựng lâu dài khó
thoát ra được.
Chỉ có hai cảnh giới mà thần thức cần lưu ý để bước vào: Cảnh giới
loài người với những nhà cửa lớn, đẹp và cảnh giới của cõi trời với
những đền đài xinh đẹp, xây dựng bằng kim loại qúy hiện ra. (3)
Đến đây một câu hỏi sẽ được đặt ra: Lý do nào khiến thần thức khó có
thể lựa chọn được cảnh giới tái sanh tốt đẹp theo ý muốn trong lúc này?
Cuốn Tạng Thư Sống Chết giải thích: “Bấy giờ những cảnh cuồng nộ sẽ hiện
ra trước mắt, những kẻ hung ác như muốn đòi mạng sẽ lôi kéo dẫn đường,
những bóng tối, gió dữ, những tiếng động kinh khủng, bảo tuyết và những
cơn mưa đá, giông tố kinh hồn, những luồng gió rét buốt tận xương xảy
đến làm thần thức sợ hãi khởi lên ý tưởng trốn chạy, tìm chỗ ẩn nấp. Họ
tìm vào trong các nhà cửa, hang đá, lỗ đất đào, cánh rừng,… (như đã miêu
tả ở trên) để ẩn trốn. Núp ở đây người ta thoát khỏi sự sợ hãi dày vò
và không muốn rời xa chỗ đó vì nghĩ rằng “Ra khỏi đây bây giờ là không
tốt.” Chỗ đang ẩn trốn mà thần thức nghĩ là an toàn đó, chính là tử cung
của người mẹ.” (4)
Như vậy, do nghiệp dẫn dắt mà sinh ra thọ, để từ đó có thọ mạng và
rồi theo luật thành, trụ, hoại, không những đời sống cứ tiếp nối mãi
không ngừng như những lượn sóng của một đại dương. Sự liên tục tiếp nối
mãi của sống chết, chết sống do nguồn năng lực của mỗi cá nhân tác động
lên, được gọi là Luân-Hồi (samsàra).
Nhân Quả, Nghiệp Báo và Luân Hồi.
Thật ra lý thuyết về luân hồi tái sanh không phải là riêng của Phật
giáo. Đây là gia sản tinh thần chung của cả nhân loại được kết tập lại
qua hàng bao thế kỷ, Đức Phật chỉ là người với tuệ giác của mình đã lý
giải vấn đề một cách rõ ràng sáng tỏ, chỉ rõ ra cho nhân sinh những điểm
còn mê mờ vướng mắc, đặc biệt là một số tà kiến, hiểu biết sai lầm về
nhân quả lưu hành trước đó và đương thời. Lúc bấy giờ người ta đã hiểu,
quan niệm về luật nhân quả một cách đơn giản, hời hợt, và đôi khi cực
đoan, chẳng hạn như cho rằng hễ gieo nhân nào thì gặt quả nấy, “trồng
dưa hái dưa, trồng đậu hái đậu”, không thể nào tránh khỏi. Nhận thức này
có một tác dụng tâm lý là tạo nên sự sợ hãi ở tín đồ khiến họ làm lành
lánh dữ với hy vọng được hưởng phước báu trong đời này hoặc đời sau, tuy
nhiên lại làm nảy sinh ra một thái độ tiêu cực là con ngưòi sẽ thờ ơ,
dửng dưng trước bất công xã hội và khổ đau của đồng loại. Người ta sẽ
cho rằng, những kẻ làm ác nay phải gánh chịu hậu quả là đúng rồi, đâu có
gì để họ phải than vãn, và như vậy tại sao ta phải bày tỏ sự quan tâm
đến họ làm gì? Quan niệm như thế rõ ràng là đã phản lại tinh thần từ bi,
không nắm vững đạo lý nhân quả theo quan điểm của Phật giáo. Bởi vì nếu
hiểu theo tinh thần này thì những nỗ lực cá nhân nhằm thay đổi nghiệp
quả trở nên phù phiếm, việc tu hành trở nên vô ích, và như vậy trong
kinh sách Phật giáo còn được lưu truyền lại, làm gì có chuyện tướng cướp
Vô Não phạm những tội ác đại nghịch, kể cả âm mưu định giết mẹ, chỉ một
phút buông dao đã trở thành Bồ Tát, đắc quả A-la-hán ngay trong hiện
kiếp?
Trên một khía cạnh nào đó thì luân hồi là hệ quả của luật nhân quả,
thế nên muốn hiểu đúng luân hồi trước tiên phải hiểu đúng luật nhân quả.
Theo quan điểm Phật giáo, luật nhân quả tựu trung bao hàm hai hệ thống
được đan chồng vào nhau:
- Đẳng lưu nhân quả: Tất cả vạn pháp hiện hành đều do những chủng tử của nó sinh khởi ra.
- Dị thục nhân quả: Sự sống hiện hành là do nghiệp lực hiện khởi, vui là do nghiệp lực thiện, khổ là do nghiệp lực ác.
Nghiệp quả và luân hồi như vậy đã gắn bó chặt chẽ với nhau và trở
thành một bộ phận quan trọng trong giáo lý của đạo Phật, một phần giúp
lý giải sự hiện hữu của vạn pháp, mặt khác hình thành một nhân sinh quan
đặc thù Phật giáo.
Thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều nổi tiếng đã từng cất lên một tiếng thở dài:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách hẵn trời gần, trời xa.
Thế nên cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều như đã được sắp sẵn, khó có thể cưỡng chống:
Ma đưa lối, qủy dẫn đường,
Cứ tìm những lối đoạn trường mà đi!
Nghiệp là cái gì mà theo cách nói của thi hào Nguyễn Du có vẻ như chi
phối hoàn toàn định mệnh của một con người như thế? Phải chăng tất cả
những gì của chúng ta hôm nay đều là kết quả hành động của chúng ta từ
bao nhiêu kiếp trước, và nó được an bài chi li cụ thể đến độ “nhất ẩm,
nhất trác giai do tiền định” ? Thuở Đức Phật còn tại thế, có một chàng
thanh niên tên Sudha, cũng đã mang những thắc mắc như chúng ta hôm nay
và tìm đến bạch Phật rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, vì lý do nào và nguyên nhân nào trong đời có
người yểu và có người thọ , người bệnh hoạn và người khoẻ mạnh , người
xấu xa và người đẹp đẽ , có hạng người làm gì cũng không ai làm theo,
nói chi cũng không ai nghe và hạng người có thế lực, làm gì cũng có
người theo, nói chi cũng có người nghe, có người nghèo khổ và người giàu
sang, có người sanh trưởng trong gia đình bần tiện và có người dòng dõi
cao sang, có người ngu dốt và có người trí tuệ? “
Đức Phật đã trả lời vắn tắt như sau:
“Tất cả chúng sanh đều mang theo cái Nghiệp (Kamma) của chính
mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ
nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có
cảnh dị đồng giữa chúng sanh.”(5)
Cái dị đồng này chính là quả báo tức là kết quả của các hành động và
khuynh hướng của chúng ta trong quá khứ và trong hiện tại, tức là do
nghiệp tạo ra. Như vậy, nghiệp là gì, đóng vai trò như thế nào trong
tiến trình đầu thai, tái sanh của chúng sinh?
Nghiệp nguyên ngữ tiếng Phạn là Karma, P?li là Kamma và Trung quốc
phiên âm thành Yết-ma, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay
việc làm, tức là hành vi tạo tác, là những gì đã tạo ra do tác dụng của ý
chí v.v… Định nghĩa rốt ráo nhất của Nghiệp là Tác ý (cetana). Tư
tưởng, lời nói, việc làm, thường khởi xuất là do “ý muốn làm” tạo nên
động cơ. Phật Giáo gọi ý muốn làm ấy là Tác ý (cetana). Tất cả những
hành động có tác ý, dầu biểu hiện bằng thân, khẩu, hay ý, đều tạo
Nghiệp. Tất cả những hành động có tác ý, thiện hay bất thiện, đều tạo
Nghiệp. Theo định nghĩa này thì những hành động không có chủ tâm, mặc
dầu đã biểu hiện bằng lời nói hay việc làm, đều không tạo Nghiệp. Đó là
nội dung lời dạy của Đức Phật: “Nầy hỡi các Tỳ Khưu, Như Lai xác nhận
rằng chính Tác ý là Nghiệp. Do có ý muốn mới có hành động, bằng thân,
khẩu hay ý. (6) Từ Tác ý phát sinh ra hành động được thể hiện qua thân
xác, lời nói và ý tưởng, thế nên, Nghiệp bao gồm Thân Nghiệp, Khẩu
Nghiệp và Ý Nghiệp trong đó Ý Nghiệp đóng vai trò trội bật vì như đã
nói, tác ý chính là Nghiệp. Một cách cụ thể, tất cả những tác nhân trong
hiện tại đều được chỉ đạo bởi ý chí phát sinh ra trong tâm thức, hay
những tác động tâm ý khiến cho thân và miệng làm theo ý chí sai khiến,
cho nên trong Kinh Trung A-hàm 32, Đức Phật đã khẳng định điều đó một cách rõ ràng: “Trong ba nghiệp thân, khẩu và, ý thì ý nghiệp là tối quan trọng.” (7)
Khi ta liệng một hòn đá vào cửa kính, cửa kính sẽ bị vỡ để lại một
cái lỗ hỗng. Lỗ hỗng lớn hay nhỏ là tùy thuộc vào viên đá mà ta ném lớn
hay nhỏ. Đây là một thí dụ đơn giản nhất về luật nhân quả trong đó nhân
là hành động ném đá và quả là lỗ hỗng ở trên cửa kính. Trong quá trình
tạo nghiệp, theo định luật tự nhiên, tất cả các tác nhân đều đưa đến kết
quả. Quả, theo điều kiện nhân duyên sẽ được chín mùi vào một thời điểm
nào đó ở ngay trong hiện kiếp hoặc các kiếp tương lai. Quả báo như vậy
luôn luôn tương ứng với tác nhân đã tạo ra, không thể nào tránh khỏi
được. Như trong Tạp A-hàm, Ngũ Phần luật, Trường A-hàm kinh, Pháp cú (Dhammapada) 127, đức Phật đã dạy:
“Hết thảy cái có sinh đều có tử, thọ mệnh cuối cùng rồi cũng phải hết.
“Y vào nghiệp mà chịu duyên báo, thiện, ác đều có quả của nó.
“Tu phúc được sinh lên cõi trời, tạo ác thì phải vào địa ngục.
“Tu đạo thì dứt được sống, chết, mà nhập niết-bàn vĩnh viễn.
“Không ở trên không, không dưới biển, không trong rừng núi, không một chỗ nào trốn được cái chết.
“Ngay đến chư Phật Bồ-tát, Duyên giác, Thinh văn còn phải bỏ cái thân vô thường, huống nữa là phàm phu.” (8)
Các loại Nghiệp ảnh hưởng đến sự tái sanh.
Nghiệp như vậy gắn bó mật thiết với luật nhân quả. Tác nhân của những
hành vi trong quá khứ, hình thành nên một năng lực liên tục cho đến
ngày hôm nay thể hiện qua thọ quả. Từ nghiệp nhân đến nghiệp quả trải
qua một dòng tương tục như là một ngọn lửa từ một ngọn đèn được truyền
nối qua những ngọn đèn kế tiếp, đây chính là sức mạnh của nghiệp mà
thường trong Phật giáo gọi là nghiệp lực. Khi cái thọ mệnh cuối cùng của
một đời người chấm dứt, như đã nói ở trên, cái nghiệp lực này sẽ dẫn
dắt “chúng sanh đầu thai” đi tìm chỗ tái sanh. Cái nghiệp thức này về
mặt giáo nghĩa có thể đã được lý giải khác nhau tùy theo quan điểm của
các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa hay Đại thừa, bài viết này không có nhu
cầu đi sâu vào việc nghiên cứu về chủ đề này, chỉ nhấn mạnh đến các loại
Nghiệp đã có những tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ vào tiến trình đầu thai,
đó là bốn loại Nghiệp tác động bao gồm Nghiệp Tái Tạo (Janaka Kamma),
Nghiệp Trợ Duyên (Upatthambhaka Kamma), Nghiệp Bổ Đồng (Upapidaka
Kamma), và Nghiệp Tiêu Diệt (Upaghataka Kamma); cùng bốn loại Nghiệp báo
ứng bao gồm: Trọng Nghiệp (Garuka Kamma ), Cận Tử Nghiệp (Asanna Kamma
), Thường Nghiệp (Acinna Kamma ), và Tích Trữ Nghiệp (Katatta Kamma ).
Phật Giáo quan niệm rằng, những tư tưởng cuối cùng của con người
trước phút lâm chung đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định
cảnh giới tái sanh sắp tới. Đây là lúc mà Nghiệp lành hay dữ phát huy
năng lực mạnh nhất tạo điều kiện cho sự đầu thai thế nên được gọi là
Nghiệp Tái Tạo.Theo nhận thức thông thường, Nghiệp Tái Tạo này chính là
những vốn liếng công đức, phẩm hạnh của cả một đời người, ai tích lũy
thiện nghiệp sẽ được đầu thai về những cảnh giới tốt đẹp và ngược lại.
Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản như vậy, đôi lúc vẫn có những đột biến
bất ngờ xảy ra trước phút lâm chung. Có người suốt đời gieo trồng thiện
nghiệp nhưng trước khi lìa đời do ảnh hưởng của ngoại cảnh, một niệm ác
bỗng khởi lên đưa thần thức của họ đến những cảnh giới không tốt đẹp.
Cũng có những trường hợp trái lại, một người suốt đời làm việc ác, nhưng
trước phút lâm chung tỉnh ngộ và hối hận, tâm thức của họ khởi lên
thiện niệm, họ liền hưởng được quả lành, thần thức nương vào đó mà được
tái sanh vào những cảnh giới tốt đẹp hơn. Điều này giải thích tại sao
một người trước phút lâm chung cần có một vị thầy hay một thiện hữu trí
thức ở bên cạnh.
Tuy nhiên đến đây có người sẽ đặt vấn đề: Nếu cho rằng cảnh giới tái
sanh tùy thuộc vào một niệm phát khởi trước phút lâm chung thì như vậy
kẻ làm thiện hay ác đến phút cuối đời đâu có gì khác nhau? Về vấn đề này
chúng ta phải nên hiểu rằng chuyện đột biến chỉ là những trường hợp cá
biệt và cũng đều có nhân duyên của nó, hơn nữa cho dù có đột biến xảy ra
bởi ngoại cảnh, những nghiệp lành hay dữ mà một cá nhân tích lũy trong
kiếp sống sẽ không mất đi, nó trở thành Nghiệp quá khứ và tác động trở
lại vào Nghiệp Tái Tạo khi hội đủ nhân duyên trong dòng luân hồi bất tận
của một chúng sanh. Nếu Nghiệp quá khứ này chen vào hỗ trợ cho Nghiệp
Tái Tạo trong chiều hướng tích cực tức là giúp thần thức đầu thai về
những cảnh giới tốt đẹp hơn thì được gọi là “Nghiệp Trợ Duyên” còn nó
làm ngăn trở, chướng ngại theo chiều hướng tiêu cực thì gọi là “Nghiệp
Bổ Đồng”. Ngoài ra, cũng trong giai đoạn quyết định này, đột nhiên một
Nghiệp quá khứ khác nghịch chiều và mạnh hơn, xuất hiện một cách bất
ngờ, có khả năng tiêu diệt hoàn toàn năng lực của các Nghiệp khác, tác
động ngay vào tiến trình đầu thai thì được gọi là “Nghiệp Tiêu Diệt”
(Upaghataka Kamma).
Về mặt Nghiệp quả, tức là khả năng báo ứng (vipakadanavasena), loại
Nghiệp đầu tiên được nói đến là “Trọng Nghiệp” (Garuka Kamma ), tức là
Nghiệp nặng, lành hay dữ, được gây ra do một hành động đặc biệt nghiêm
trọng. Loại Nghiệp này sẽ tạ nên một hậu quả tức thời ngay trong hiện
kiếp hoặc trở thành nhân tố chính dẫn đến sự tái sanh trong kiếp kế
tiếp. Nếu lúc tái sanh mà không có một Trọng Nghiệp làm điều kiện cho sự
đầu thai vào kiếp kế tiếp thì “Cận Tử Nghiệp” (Asanna Kamma ) sẽ là
nghiệp lực dắt dẫn thần thức đi thọ sanh. Cận Tử Nghiệp là hành vi cuối
cùng, hay cũng có thể là bất cứ hình ảnh, ý niệm nào mà chập tư tưởng
cuối cùng nhớ đến trước khi lâm chung. Về mặt tác dụng, loại Cận Tử
Nghiệp này gần giống với loại Nghiệp Tái Tạo như đã nói ở trên. Trong
giai đoạn thân trung ấm, nếu tiến trình đầu thai không bị tác động bởi
hai loại Nghiệp trên thì loại nghiệp thứ ba tức là “Thường Nghiệp”
(Acinna Kamma) sẽ phát huy tác dụng. Thường Nghiệp là tất cả những hành
động, việc làm, thói quen mà ta thường lập đi lập lại trong đời sống
hằng ngày, un đúc trở thành tập khí, tâm tánh của mỗi con người. Đó cũng
là những điều mà ta thường tưởng nhớ đến hoặc ưa thích hơn hết trong
kiếp sống hiện tại, chẳng hạn như những tình cảm yêu thương gắn bó trong
mối liên hệ gia đình, cha mẹ, vợ chồng, con cái, và rồi trong phút lâm
chung chúng sẽ trở nên những hình ảnh gắn bó với thần thức, tạo nên tác
động ảnh hưởng vào tiến trình đầu thai. Cuối cùng những trường hợp nào
không thuộc vào một trong ba loại nghiệp kể trên thì đưọc gom chung lại
thành một loại là Nghiệp Tích Trữ (Katatta Kamma) tức là cái vốn dự trữ
của một cá nhân.
Tạm Kết Luận
Chúng ta đã đi qua một số khái niệm cơ bản về luật nhân quả, nghiệp
báo và luân hồi làm nền tảng cho lý thuyết đầu thai, tái sanh theo quan
điểm Phật giáo. Tuy nhiên để tạm thời kết thúc vấn đề này có ba điểm mà
chúng ta không thể không lưu ý:
Thứ nhất, thuyết tái sanh luân hồi không phải là một học thuyết của
riêng Phật giáo. Như đã trình bày ở trên, đây là một gia sản tinh thần
của nhân loại được chia xẻ bởi hầu hết các tôn giáo lớn trên địa cầu.
Ngay cả Cơ Đốc giáo, niềm tin này cũng đã phảng phất trong Thánh kinh
Tân Ước, cụ thể như trong “Tin lành theo thánh Ma-thi-ơ“:
Khi Jêsus đến trong địa phận Sê-sa-rê Phi-líp bèn hỏi môn đồ rằng : ” Người ta nói Con người là ai ? ”
Họ thưa rằng : ” Người thì nói Giăng Báp-Tít, kẻ thì nói Ê-li, kẻ
khác lại nói Giê-rê-mi hay là một tiên tri nào đó. ” (Matthew 16 :13-14)
42.
Hoặc một đoạn trong ” Tin Lành Theo Thánh Giăng ” :
Khi Jêsus đi qua, thấy một người mù từ thuở sanh ra. Môn đồ hỏi
Ngài rằng : ” Ra-bi, ai đã phạm tội, người này hay là cha mẹ người, mà
người sanh ra thì mù? “
Jêsus đáp rằng : ” Người này không phạm tội, cha mẹ người cũng
không, nhưng ấy để cho công việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người. “ (John 9 :1-2) 256
Thứ hai, định luật Nghiệp Báo của Phật giáo hoàn toàn khác biệt với
Thuyết Định Mệnh hay Tiền Định ở một số tín ngưỡng khác. Với Phật giáo,
số phận của một con người không hề được an bài, sắp đặt bởi bàn tay của
một đấng chủ tể hay Thượng Đế nào, và do đó không ai có thể cãi đổi
được. Tuy cho rằng nguyên nhân tạo nên hoàn cảnh chênh lệch trong đời
sống của con người là sự khác biệt giữa cái Nghiệp mỗi chúng sanh tạo
ra, nhưng Phật Giáo không bao giờ xem Nghiệp là một nguyên nhân duy nhất
và điều quan trọng hơn, Phật giáo còn quan niệm rằng dòng sinh mệnh của
một con người là một dòng chảy liên tục và sống động mà mỗi con người
có khả năng góp phần vào làm chuyển đổi dòng chảy đó ngay trong kiếp
sống này. Tinh thần này đã được thể hiện rõ ràng trong lời Đức Phật phê
phán về sự hiểu biết về Nghiệp và luật nhân quả một cách cứng ngắt:
“Nếu luận như vậy và quả quyết rằng do những hành động trong quá
khứ mà con người trở thành sát nhân, trộm cướp, dâm loàn, láo xược, thô
lỗ, nhảm nhí, tham lam, xảo quyệt, hư hèn, thì ta có lý do để ỷ lại, dựa
trên quá khứ mà không muốn thực hiện, không cố gắng thực hiện,và cũng
không cần thiết phải thực hiện, hay không thực hiện, một hành động, dầu
hành động ấy có đáng thực hiện hay không. “
Trên cơ sở của những học thuyết và niềm tin về giáo lý tái sanh, luân
hồi, Phật giáo xem phôi bào là một sinh mệnh, vì đây là một ” chúng
sanh đầu thai “. Gần đây, qua những công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học tên tuổi, mà nổi bật nhất là của BS/GS Ian Stevenson, Khoa
trưởng Phân Khoa Thần Kinh và Phân Tâm, Đại Học Y Khoa Virginia, HK
(1957-1967), đã đưa ra rất nhiều những bằng chứng có tính thuyết phục,
vấn đề tái sanh, đầu thai, tiền kiếp, hậu kiếp trong thời đại ngày nay
đã không còn là chuyện mê tín, hoang đường. Viện thống kê Gallup danh
tiếng của Hoa Kỳ trong năm 1999 đã thực hiện một cuộc thăm dò về đề tài
này, kết quả cho thấy đã có đến trên 20% người Cơ Đốc tin tưởng vào
chuyện tái sanh. Dr. Christopher Bache tác giả cuốn “Life Cycles: Reincarnation and the Web of Life”
và đồng thời cũng là Giáo sư giảng dạy bộ môn tôn giáo tại Trưòng Đại
học Youngstown State University trong một cuộc phỏng vấn đặc biệt dành
cho hãng AOL mới đây, đã khẳng định rằng, “Với các chứng nghiệm càng
ngày càng mạnh mẽ hơn, các nhà thờ rồi đây sẽ phải chấp nhận chuyện này
như là một vấn đề đơn giản trong cuộc sống. ” (9) Phát xuất từ những
công trình nghiên cứu này mà một phương thức trị liệu mới được chấp nhận
để điều trị những căn bệnh bất trị, những căn bệnh mà các phương tiện y
khoa hiện đại đã bó tay không tìm ra nguyên nhân, đó là bộ môn THÔI
MIÊN TRỊ LIỆU PHÁP, qua đó những chuyên gia về thôi miên có thể giúp
bệnh nhân đi trở ngược lại quá khứ, nhận ra rằng căn bệnh của họ có
nguyên nhân từ những kiếp trước và nhờ thế được chữa khỏi bệnh.
Thứ ba, khi đã hiểu rõ vấn đề tái sanh, đầu thai, luân hồi, nghiệp
quả theo quan điểm Phật giáo, người ta sẽ rất dễ dàng hiểu được cái chết
là gì và ý nghĩa của nó trong chu kỳ thành, trụ, hoại, không của vạn
pháp. Bồ tát Thế Thân trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận
(Abhidharmakosha), cho rằng cuộc sống là cái giá nâng đỡ của nhiệt và
tâm thức, sự dừng lại của hoạt động này là cái chết. Thời gian thân thể
vật chất và tâm thức kết hợp là đời sống, sự tách lìa chúng tạo ra cái
chết. Về ba mức độ biểu lộ của thân và tâm, tức là mức độ thô, tế và rất
vi tế, cái chết là sự chia lìa giữa tâm thức và thân xác bởi vì không
thể có sự chia lìa giữa tâm thức vi tế nhất và yếu tố vật chất vi tế
nhất. Nhận định này đã góp phần vào việc lý giải lời Phật dạy trong Trung Bộ Kinh
đã được trích dẫn ở trên: “Nếu nhằm lúc thọ thai của người mẹ và chúng
sanh đi đầu thai cũng có mặt trong lúc giao hợp, nếu hội đủ ba nhân:
tinh-trùng, noãn bào và thức, thì mầm sống được gieo trồng: “Này các Tỳ-kheo, nơi nào có ba thành tố ấy hợp lại thì tại nơi đó một mầm sống được gieo”.
Từ cách nhìn của Phật giáo, cái chết như vậy bao gồm 2 yếu tố: sự tan
rã của sắc uẩn được báo hiệu bằng sự giá lạnh của cơ thể (không còn
nhiệt) và sự chấp nhận của thức rời bỏ thể xác cũ để đi vào cảnh giới
mới hay giai đoạn thân trung ấm. Trong hai yếu tố này, sự hiểu biết của
nhà khoa học -cụ thể là người thầy thuốc- về tâm thức, hay thần thức cho
đến nay vẫn chỉ là một con số không, thế nên họ không có đủ tư cách để
can thiệp vào việc quyết định dòng sinh mệnh hay cái chết của một con
người. Ngay cả đối với những trường hợp mà giới y khoa cho là ” chết não
bộ ” hay ” tình trạng cây cỏ “, việc chấm dứt thọ mạng của những chúng
sanh này dù dưới bất cứ chiêu bài, nhãn hiệu nào đều là một hành vi sát
nhân. Tham dự vào công việc này, là Phật tử bạn còn phạm một tội ác
khác, đó là cản trở tiến trình đầu thai của một chúng sinh, bởi lẽ làm
sao bạn biết được lúc nào thì thần thức chuẩn bị rời bỏ thân xác, nhất
là khi thân xác vẫn còn nóng ấm, nghĩa là chưa chết? Chúng ta chưa có đủ
trí tuệ của một đấng Giác Ngộ, nói về chuyện trợ tử thì cũng chỉ là
những người mù nói chuyện về ánh sáng, tuy nhiên căn cứ vào những lời
dạy của Ngài còn để lại, ta vẫn có thể có được những ánh sáng soi
đường…■
CHÚ THÍCH -.
(1) Beyond Dogma, HH the Dalai Lama. Rupa & Co., 1996. P. 11.
(2) Beyond Dogma, HH the Dalai Lama .Rupa & Co., 1996. P. 43.
(3) The Tibetan Book of The Dead, Evans Wentz, p.p.183-184.
(4) The Tibetan Book of The Dead, Evans Wentz, p.186.
(5) Atthasalini, trang 63; The Expositor, phần I, trang 91.”LÝ NHÂN QUẢ,
Nàrada Mahà Thera. Phạm Kim Khánh dịch -(Trích “Đức Phật và Phật Pháp”,
Chương 18-21)”
(6) Anguttara Nikaya, iii, 415; The Expositor phần I, trang 117;
Atthasalini, trang 88 “LÝ NHÂN QUẢ, Nàrada Mahà Thera. Phạm Kim Khánh
dịch -(Trích “Đức Phật và Phật Pháp”, Chương 18-21)”
(7) Trung A-hàm 32, Đ. 1
(8) Tạp A-hàm 3, tr.891, Ngũ Phần luật, Đ.21, trang: 28a. Trường A-hàm, Đại 1, tr.127.
(9) Laura Sheahen phỏng vấn Life Cycles: Reincarnation and the Web of Life
SÁCH, TÀI LIỆU THAM KHẢO
– Bên Kia Cửa Tử -Trần Ngọc Anh
– Bí Ẩn Về Tiền Kiếp Hậu Kiếp – Đoàn Văn Thông
– Kinh Thánh – The Gideons International.
– Kinh Trường A Hàm – Thích Thiện Siêu
– Luật Quả Báo – Đoàn Văn Thông
– Past Lives, Future Lives – Dr. Bruce Goldberg
– Sự Sống và Sự Chết trong Phật Giáo – Thích Thiện Châu
– Một nhận định về A-lại-da Thức – Hòa thượng Walpola Ràhula – Tỳ kheo Giác Nguyên dịch Việt
– Luân hồi, nghiệp báo – Thích Đức Thắng
– Nhân Quả – Thích Đức Thắng
– Giáo lý Phật giáo về sự Tái Sanh – Đại Đức Narada Maha Thera – Bác sĩ Nguyễn Trạch Thiện dịch
– Chết là gì? – Tenzin Gyatso- Thiện Tri Thức dịch
Tâm Hà Lê Công Đa | Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 64